Nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh là tình trạng bị các tác nhân vi sinh vật xâm lần, thường là do vi khuẩn xảy ra trong giai đoạn sơ sinh. Dấu hiệu nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh rất đa dạng và không đặc hiệu bao gồm: giảm vận động, ăn bú kém, ngừng thở, tim chậm, thay đổi thân nhiệt, suy hô hấp, nôn, tiêu chảy, bụng chướng, rung cơ, co giật và vàng da. Chẩn đoán dựa trên khám thực thể và nuôi cấy vi khuẩn. Điều trị ban đầu bằng ampicillin cộng với gentamicin hoặc cefotaxime, sau đó thu hẹp phạm vi điều trị xuống còn kháng sinh đặc hiệu với vi khuẩn càng sớm càng tốt.
(Xem thêm Nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn ở người lớn và Tổng quan về nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh.)
Nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh xảy ra ở 1 đến 4/1000 ca sinh (1). Các yếu tố nguy cơ bao gồm:
Nhiễm trùng ở mẹ hoặc sốt trong khi chuyển dạ, bao gồm nhiễm trùng do liên cầu nhóm B và nhiễm trùng trong màng ối
Trẻ sinh nhẹ cân (LBW)
Điểm Apgar thấp và/hoặc hồi sức sơ sinh
Giới tính là nam (2)
Tình trạng kinh tế xã hội thấp có liên quan đến tăng tỷ lệ mắc và tử vong do nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh (3, 4).
Tài liệu tham khảo chung
1. Shane AL, Sánchez PJ, Stoll BJ. Neonatal sepsis. Lancet. 2017;390(10104):1770-1780. doi:10.1016/S0140-6736(17)31002-4
2. Murthy S, Godinho MA, Guddattu V, Lewis LES, Nair NS. Risk factors of neonatal sepsis in India: A systematic review and meta-analysis. PLoS One. 2019;14(4):e0215683. Xuất bản ngày 25 tháng 4 năm 2019. doi:10.1371/journal.pone.0215683
3. Bech CM, Stensgaard CN, Lund S, et al. Risk factors for neonatal sepsis in Sub-Saharan Africa: a systematic review with meta-analysis. BMJ Open. 2022;12(9):e054491. Xuất bản ngày 1 tháng 9 năm 2022. doi:10.1136/bmjopen-2021-054491
4. Bohanon FJ, Nunez Lopez O, Adhikari D, et al. Race, Income and Insurance Status Affect Neonatal Sepsis Mortality and Healthcare Resource Utilization. Pediatr Infect Dis J. 2018;37(7):e178-e184. doi:10.1097/INF.0000000000001846
Căn nguyên của nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh
Khởi phát nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh có thể
Sớm (≤ 3 ngày sau khi sinh)
Muộn (> 3 ngày)
Nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh khởi phát sớm
Nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh khởi phát sớm thường là do vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể trong khi chuyển dạ. Hầu hết trẻ sơ sinh có các triệu chứng trong vòng 6 giờ sau sinh.
Phần lớn các trường hợp do Streptococcus nhóm B (GBS) và vi khuẩn Gram âm ở ruột (chủ yếu là Escherichia coli) gây ra. Nuôi cấy dịch âm đạo hoặc dịch trực tràng của phụ nữ mang thai đủ tháng cho thấy tỷ lệ có quần cư GBS khoảng 18% (1, 2). Có tới 50% số trẻ sơ sinh cũng có quần cư (3). Mật độ quần cư ở trẻ sơ sinh quyết định nguy cơ mắc bệnh xâm lấn khởi phát sớm, nguy cơ này cao hơn đáng kể khi có quần cư nặng. Mặc dù chỉ có 1 đến 2/100 trẻ sơ sinh có quần cư phát triển bệnh xâm lấn do GBS, nhưng phần lớn các trường hợp này xuất hiện trong vòng 6 giờ đầu tiên sau khi sinh. Nhiễm khuẩn huyết do Haemophilus influenzae không phân nhóm cũng đã được xác định ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ sơ sinh non.
Các trường hợp khác có xu hướng do trực khuẩn đường ruột gram âm gây ra (ví dụ, các chủng Klebsiella) và một số sinh vật gram dương (Listeria monocytogenes, enterococci [ví dụ, Enterococcus faecalis, E. faecium], liên cầu khuẩn nhóm D [ví dụ, Streptococcus bovis], liên cầu tan huyết alpha và tụ cầu). Ngoài ra, S. pneumoniae, H. influenzae típ b và ít phổ biến hơn là Neisseria meningitidis cũng đã được phân lập. Bệnh lậu không được điều trị trong thai kỳ có thể dẫn đến N. gonorrhoeae trở thành tác nhân gây bệnh nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh (4).
Một số bệnh nhiễm trùng do vi rút (ví dụ: herpes simplex lan tỏa, enterovirus, adenovirus, vi rút hợp bào hô hấp) có thể biểu hiện như nhiễm khuẩn huyết khởi phát sớm hoặc khởi phát muộn.
Nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh khởi phát muộn
Nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh khởi phát muộn thường do môi trường gây ra (xem Nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh mắc phải ở bệnh viện). Staphylococci chiếm từ 30 đến 60% trường hợp nhiễm khuẩn sơ sinh muộn và thường xảy ra do can thiệp thủ thuật (đặc biệt thủ thuật xâm lấn mạch máu). E. coli cũng ngày càng được công nhận là nguyên nhân quan trọng gây nhiễm khuẩn huyết khởi phát muộn, đặc biệt là ở trẻ sơ sinh cực kỳ nhẹ cân. Phân lập Enterobacter cloacae hoặc Cronobacter sakazakii từ máu hoặc dịch não tủy có thể là do thức ăn bị nhiễm khuẩn. Nhiễm khuẩn hô hấp từ các dụng cụ và chăm sóc thở máy có thể phát triển thành dịch bệnh do Pseudomonas aeruginosa gây viêm phổi bệnh viện hoặc nhiễm khuẩn huyết.
Mặc dù việc sàng lọc toàn diện và dự phòng bằng kháng sinh trong khi chuyển dạ đối với GBS đã làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh khởi phát sớm do vi sinh vật này, nhưng tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết do GBS khởi phát muộn vẫn không thay đổi, điều này phù hợp với giả thuyết cho rằng bệnh khởi phát muộn thường mắc phải từ môi trường.
Vai trò của vi khuẩn kị khí (đặc biệt Bacteroides fragilis) trong nhiễm khuẩn huyết khởi phát muộn vẫn còn chưa rõ ràng, mặc dù vãng khuẩn huyết do Bacteroides có nguy cơ tử vong cao.
Các chủng Candida ngày càng trởi thành nguyên nhân quan trọng gây nhiễm khuẩn huyết khởi phát muộn, xảy ra ở trẻ sơ sinh rất nhẹ cân.
Một số bệnh nhiễm trùng do vi rút (ví dụ: herpes simplex lan tỏa, enterovirus, adenovirus, vi rút hợp bào hô hấp) có thể biểu hiện như nhiễm khuẩn huyết khởi phát sớm hoặc khởi phát muộn.
Tài liệu tham khảo về căn nguyên
1. Kwatra G, Cunnington MC, Merrall E, et al. Prevalence of maternal colonisation with group B streptococcus: a systematic review and meta-analysis. Lancet Infect Dis. 2016;16(9):1076-1084. doi:10.1016/S1473-3099(16)30055-X
2. Russell NJ, Seale AC, O'Driscoll M, et al. Maternal Colonization With Group B Streptococcus and Serotype Distribution Worldwide: Systematic Review and Meta-analyses. Clin Infect Dis. 2017;65(suppl_2):S100-S111. doi:10.1093/cid/cix658
3. Prevention of Group B Streptococcal Early-Onset Disease in Newborns: ACOG Committee Opinion Summary, Number 782. Obstet Gynecol. 2019;134(1):1. doi:10.1097/AOG.0000000000003335
4. Shane AL, Sánchez PJ, Stoll BJ. Neonatal sepsis. Lancet. 2017;390(10104):1770-1780. doi:10.1016/S0140-6736(17)31002-4
Sinh lý bệnh của nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh
Nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh khởi phát sớm
Một số yếu tố chu sinh và sinh sản của bà mẹ làm tăng nguy cơ, đặc biệt là nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh khởi phát sớm, như sau:
Vỡ ối sớm (PROM) xảy ra ≥ 18 giờ trước khi sinh
Nhiễm trùng trong màng ối ở mẹ (thường có biểu hiện là sốt ở mẹ ngay trước hoặc trong khi sinh kèm theo tăng bạch cầu, nhịp tim nhanh, ấn đau ở tử cung và/hoặc nước ối có mùi hôi)
Mang GBS (Liên cầu nhóm B)
Lây lan qua đường máu và qua nhau thai xảy ra khi lây truyền một số tác nhân gây bệnh do vi rút (ví dụ: rubella, cytomegalovirus), động vật nguyên sinh (ví dụ, Toxoplasma gondii) và treponemal (ví dụ Treponema pallidum). Một số tác nhân gây bệnh (ví dụ: L. monocytogenes, Mycobacterium tuberculosis) có thể xâm nhập vào thai nhi qua nhau thai, nhưng hầu hết đều lây truyền qua đường từ tử cung lên hoặc trong quá trình chuyển dạ và sinh nở do tiếp xúc với dịch âm đạo bị nhiễm trùng.
Mặc dù mật độ vi khuẩn mang ở bà mẹ có liên quan trực tiếp đến nguy cơ bệnh xâm lấn ở trẻ sơ sinh, nhưng nhiều bà mẹ có mật độ mang vi khuẩn thấp lại sinh ra trẻ sơ sinh có mật độ mang vi khuẩ cao, vì vậy chúng có nguy cơ cao nhiễm bệnh. Nước ối có phân su hoặc nhiều chất gây có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Streptococcus nhóm B và E. coli. Hơn nữa, một vài sinh vật trong khoang âm đạo của mẹ có thể tăng nhanh sau vỡ ỗi sớm (PROM), có thể góp phần lây truyền ngược dòng. Các sinh vật thường xâm nhập vào máu thông qua việc thai nhi hít phải hoặc nuốt phải nước ối bị nhiễm khuẩn, dẫn đến vãng khuẩn huyết.
Con đường lây nhiễm đi lên giúp giải thích các hiện tượng như tỷ lệ mắc PROM cao ở các trường hợp nhiễm trùng sơ sinh, tầm quan trọng của tình trạng viêm phần phụ (viêm màng ối thường liên quan đến nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh nhiều hơn là viêm nhau thai trung tâm), nguy cơ nhiễm trùng tăng cao ở thai đôi ở thai nhi nằm gần cổ tử cung hơn và các đặc điểm vi khuẩn học của nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh khởi phát sớm, phản ánh hệ vi khuẩn đường ruột của vòm âm đạo của mẹ.
Nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh khởi phát muộn
Yếu tố nguy cơ quan trọng nhất trong nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh khởi phát muộn là:
Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm:
Sử dụng catheter nội mạch kéo dài
Bệnh liên quan (có thể,chỉ là một dấu hiệu cho việc sử dụng thủ tục xâm lấn)
Sử dụng kháng sinh không phù hợp (tăng vi khuẩn kháng thuốc)
Nằm viện kéo dài
Thiết bị bị ô nhiễm hoặc dung dịch tiêm truyền hoặc cho ăn.
Các vi khuẩn Gram dương (ví dụ, coagulase-negative staphylococci và Staphylococcus aureus) có thể từ môi trường hoặc da của bệnh nhân. Các vi khuẩn Gram âm thường xuất phát từ hệ vi khuẩn nội sinh của bệnh nhân, có thể đã bị thay đổi do sử dụng kháng sinh trước đó hoặc do các vi khuẩn kháng thuốc chuyển từ bàn tay của nhân viên chăm sóc (phương tiện lây lan chính) hoặc thiết bị bị ô nhiễm. Do đó, những tình huống làm tăng khả năng tiếp xúc với các loại vi khuẩn này (ví dụ: đông đúc, thiếu điều dưỡng, nhân viên rửa tay không thường xuyên) sẽ dẫn đến tỷ lệ nhiễm trùng mắc phải ở bệnh viện cao hơn.
Các yếu tố nguy cơ gây nhiễm khuẩn huyết do nấm candida bao gồm sử dụng ống thông tĩnh mạch trung tâm trong thời gian dài (> 10 ngày), dinh dưỡng qua đường tiêm truyền, sử dụng kháng sinh trước đó (đặc biệt là cephalosporin thế hệ thứ ba) và bệnh lý ở ổ bụng.
Nhiễm trùng ban đầu có thể xảy ra ở đường tiểu, viêm xoang, tai giữa, viêm phổi hoặc đường tiêu hoá, và sau đó có thể lan truyền màng não, thận, xương, khớp, phúc mạc và da.
Các triệu chứng và dấu hiệu của nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh
Dấu hiệu ban đầu của nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh thường không đặc hiệu, kín đáo và không phân biệt giữa các tác nhân (kể cả vi rút). Những dấu hiệu ban đầu đặc biệt phổ biến bao gồm:
Giảm hoạt động tự phát
Bú ít
Chán ăn
Ngưng thở
Nhịp chậm
Sự mất ổn định nhiệt độ (hạ thân nhiệt hoặc tăng thân nhiệt)
Sốt xuất hiện ở < 10% số trẻ sơ sinh nhưng nếu kéo dài (ví dụ: > 1 giờ) thường là dấu hiệu của nhiễm trùng (1). (Xem thêm Sốt ở trẻ sơ sinh và trẻ em.) Có thể có tình trạng nhiệt độ không ổn định thay vì sốt. Các triệu chứng và dấu hiệu khác bao gồm suy hô hấp, các triệu chứng thần kinh (ví dụ, cơn co giật, rung giật), vàng da (đặc biệt xuất hiện trong vòng 24 giờ đầu đời mà không có bất đồng Rh hoặc ABO với tăng nồng độ bilirubin trực tiếp), nôn, tiêu chảy, và chướng bụng.
Các dấu hiệu cụ thể của cơ quan bị nhiễm trùng có thể xác định vị trí chính hoặc vị trí di căn:
Hầu hết trẻ sơ sinh bị nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) khởi phát sớm (và nhiều trẻ bị nhiễm L. monocytogenes) đều có biểu hiện suy hô hấp khó phân biệt với hội chứng suy hô hấp.
Viêm tấy đỏ, chảy dịch, chảy máu quanh rốn mà không có các bệnh lý liên quan chảy máu khác có thể là dấu hiệu gợi ý nhiễm trùng rốn (nhiễm trùng gây hủy hoại của mạch rốn).
Hôn mê, co giật, uốn người ra sau hoặc thóp phồng gợi ý viêm màng não, viêm não hoặc áp xe não.
Giảm khả năng vận động tự nhiên của một chi và tình trạng sưng, nóng, ban đỏ hoặc đau ở khớp là dấu hiệu của viêm tủy xương hoặc viêm khớp nhiễm trùng.
Tình trạng chướng bụng không rõ nguyên nhân có thể là dấu hiệu của viêm phúc mạc hoặc viêm ruột hoại tử (đặc biệt là khi kèm theo tiêu chảy ra máu và bạch cầu trong phân).
Các mụn nước trên da, loét miệng và gan lách to (đặc biệt là có tình trạng đông máu rải rác trong lòng mạch) có thể chỉ ra herpes simplex lan tỏa.
Nhiễm trùng do GBS khởi phát sớm có thể biểu hiện dưới dạng viêm phổi tối cấp. Thông thường, các biến chứng sản khoa (đặc biệt là sinh non, PROM hoặc nhiễm trùng trong màng ối) đã xảy ra. Nhiễm trùng do GBS khởi phát sớm biểu hiện ở hầu hết trẻ sơ sinh bị ảnh hưởng trong vòng 6 giờ sau sinh; nhiều trẻ có điểm Apgar giảm khi sinh. Viêm màng não có thể có nhưng không phổ biến.
Trong nhiễm GBS khởi phát muộn (khi được > 3 ngày đến 12 tuần), viêm màng não thường xuất hiện. Nhiễm GBS khởi phát muộn thường không liên quan đến các yếu tố nguy cơ chu sinh hoặc tình trạng quần cư ở cổ tử cung của mẹ rõ ràng và có thể mắc phải sau khi sinh.
Tài liệu tham khảo về các triệu chứng và dấu hiệu
1. Hofer N, Müller W, Resch B. Neonates presenting with temperature symptoms: role in the diagnosis of early onset sepsis. Pediatr Int. 2012;54(4):486-490. doi:10.1111/j.1442-200X.2012.03570.x
Chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh
Tiền sử và khám thực thể, bao gồm tiền sử của mẹ
Nuôi cấy máu, dịch não tủy (CSF) và đôi khi là nước tiểu
Công thức máu, các chất chỉ điểm về viêm và các chất chỉ điểm về chức năng của hệ thống cơ quan
Chẩn đoán sớm nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh là rất quan trọng và đòi hỏi cảnh giác với các yếu tố nguy cơ (đặc biệt ở trẻ sơ sinh cân nặng thấp) và tiếp tục cần theo dõi nếu có bất thường trong vài tuần đầu đời. Dự đoán nguy cơ bị nhiễm trùng huyết khởi phát sớm ở trẻ sơ sinh là công cụ tính toán nguy cơ lâm sàng cho trẻ sơ sinh từ 34 tuần tuổi thai khi sinh ra, được xác nhận để sử dụng trong các cơ sở có nhiều nguồn lực. Các công cụ dự đoán nguy cơ khác có thể được áp dụng nhiều hơn ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình (1, 2, 3).
Trẻ sơ sinh có dấu hiệu lâm sàng nhiễm khuẩn huyết cần được làm xét nghiệm công thức máu (CBC), tiêu bản xét nghiệm công thức bạch cầu, các chất chỉ điểm về viêm (ví dụ: protein C phản ứng, procalcitonin), nuôi cấy máu, nuôi cấy nước tiểu (không cần thiết để đánh giá nhiễm khuẩn huyết khởi phát sớm) và chọc dịch não tủy (LP), nếu khả thi về mặt lâm sàng càng sớm càng tốt. Trẻ sơ sinh có triệu chứng về hô hấp cần chụp X-quang ngực. Chẩn đoán được xác nhận bằng cách cô lập một mầm bệnh trong nuôi cấy. Các kiểm tra khác có thể có kết quả bất thường và mặc dù không nhất thiết chẩn đoán được nhiễm khuẩn huyết nhưng có thể giúp đánh giá mức độ bệnh tật và mức độ thương tổn của hệ thống cơ quan. Điều trị kháng sinh phổ rộng điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm.
Trẻ sơ sinh có vẻ khỏe mạnh sẽ được chăm sóc tùy thuộc vào một số yếu tố được thảo luận dưới đây trong mục Phòng ngừa nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh.
Công thức máu, kéo lam máu
Tổng số bạch cầu và số lượng tuyệt đối của các dòng bạch cầu ở trẻ sơ sinh là yếu tố dự báo kém của nhiễm trùng huyết sớm khởi phát. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng chưa trưởng thành: tổng số bạch cầu đa hạt nhân > 0,16 là có giá trị chẩn đoán, và các giá trị dưới ngưỡng này có một giá trị tiên đoán âm tính cao. Tuy nhiên, độ đặc hiệu kém và nhiều trẻ sơ sinh đủ tháng có tỷ lệ này cao. Các giá trị thu được sau 6 giờ tuổi có nhiều khả năng là bất thường và có giá trị lâm sàng so với những kết quả thu được ngay sau khi sinh.
Số lượng tiểu cầu có thể giảm vài giờ đến ngày khởi trước khi khởi phát nhiễm khuẩn huyết trên lâm sàng nhưng thường vẫn tăng sau khi trẻ hồi phục một ngày. Sự sụt giảm này đôi khi đi kèm với các dấu hiệu khác về tình trạng đông máu rải rác trong lòng mạch (ví dụ: tăng sản phẩm phân hủy fibrin, giảm fibrinogen, kéo dài tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế [INR]). Với những thay đổi này, số lượng tiểu cầu thường không hữu ích trong việc đánh giá một trẻ sơ sinh nhiễm khuẩn huyết.
Do có một lượng lớn vi khuẩn lưu thông trong máu nên đôi khi có thể được nhìn thấy vi khuẩn trong các bạch cầu hạt đa nhân bằng cách sử dụng chất nhuộm Gram, màu xanh methylene, hoặc chất tẩy crôm acridine với hệ đệm.
Bất kể kết quả xét nghiệm công thức máu hay đánh giá dịch não tủy, ở tất cả trẻ sơ sinh nghi ngờ nhiễm khuẩn huyết (ví dụ: những trẻ có vẻ ốm hoặc sốt hoặc hạ thân nhiệt), nên bắt đầu dùng kháng sinh ngay sau khi lấy mẫu nuôi cấy (ví dụ: máu và dịch não tủy [nếu có thể]).
Chọc dò tủy sống
Có nguy cơ làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu oxy trong quá trình LP ở trẻ sơ sinh vốn đã bị hạ oxy máu. Tuy nhiên, LP nên được thực hiện ở trẻ sơ sinh nghi ngờ nhiễm khuẩn huyết ngay khi trẻ có thể chịu đựng được thủ thuật (xem thêm Chẩn đoán viêm màng não do vi khuẩn ở trẻ sơ sinh). Các dấu hiệu của viêm màng não do vi khuẩn bao gồm số lượng bạch cầu tăng cao, lượng glucose thấp và lượng protein tăng cao. Cung cấp Oxygen được cho trước và trong suốt quá trình LP để ngăn tình trạng thiếu oxy.
Nuôi cấy máu
Các mạch rốn có thể bị nhiễm khuẩn từ các vi khuẩn ở trên gốc rốn, đặc biệt là sau một vài giờ, do đó việc nuôi cấy máu từ catheter tĩnh mạch rốn có thể không đáng tin cậy. Do đó, cần lấy máu để nuôi cấy bằng mạch ngoại biên, tốt hơn là ở 2 vị trí. Mặc dù, việc chuẩn bị da tối ưu để thực hiện trước khi nuôi cấy máu ở trẻ sơ sinh không được xác định, bác sĩ lâm sàng có thể dùng dung dịch chứa iốt và phải để cho vùng da khô hoàn toàn sau sát khuẩn. Ngoài ra, máu được lấy ngay sau khi đặt catheter động mạch rốn cũng có thể được sử dụng cho nuôi cấy nếu cần.
Máu nên được nuôi cấy cho cả vi khuẩn hiếu khí và kị khí. Tuy nhiên, lượng máu tối thiểu cho mỗi chai nuôi cấy máu là 1,0 mL; nếu < 2 mL thu được, tất cả nên được đặt trong một chai hiếu khí duy nhất. Nếu nghi ngờ nhiễm khuẩn huyết do catheter, mẫu vật nuôi cần được lấy thông qua catheter cũng như ngoại biên.
Chủng Candida có thể mọc trên đĩa nuôi cấy máu và trên các đĩa thạch máu, nhưng nếu nghi ngờ có nấm khác thì nên sử dụng phương pháp nuôi cấy nấm. Đối với các loài nấm khác Candida, nuôi cấy máu nấm có thể cần từ 4 đến 5 ngày ủ bệnh trước khi trở nên dương tính và có thể âm tính ngay cả khi bệnh lan truyền rõ rệt. Bằng chứng về sự mang các tác nhân này (trong miệng hoặc phân hoặc trên da) có thể hữu ích trước khi có kết quả nuôi cấy. Trẻ sơ sinh bị nấm máu cần được thực hiện LP để xác định viêm màng não do nấm. Soi đáy mắt gián tiếp có giãn đồng tử được thực hiện để xác định tổn thương võng mạc do nấm candida. Siêu âm thận được thực hiện để phát hiện u nấm ở thận.
Phân tích nước tiểu và cấy nước tiểu
Xét nghiệm nước tiểu là cần thiết chỉ để đánh giá nhiễm khuẩn huyết muộn. Nên lấy nước tiểu qua đặt ống thông bàng quang hoặc chọc hút trên xương mu, không lấy mẫu qua túi nước tiểu. Mặc dù chỉ có kết quả cấy là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán, một số chỉ số như ≥ 5 bạch cầu/trường năng lượng cao hoặc thấy bất kỳ vi sinh vật nào trong một mẫu soi là bằng chứng của nhiễm trùng đường tiểu (UTI). Không có bạch cầu trong nước tiểu không loại trừ nhiễm trùng đường tiểu.
Các xét nghiệm khác về nhiễm trùng và viêm
Nhiều xét nghiệm thường có bất thường trong nhiễm khuẩn huyết và đã được đánh giá là dấu hiệu sớm. Tuy nhiên, hầu hết độ nhạy của các xét nghiệm có xu hướng thấp cho đến khi nhiễm trùng rõ ràng sau đó trong bệnh tật, và độ đặc hiệu cũng không thật sự cao. Các chất chỉ điểm sinh học không được coi là hữu ích để xác định thời điểm bắt đầu dùng kháng sinh cho nhiễm khuẩn huyết ở trẻ trẻ sơ sinh vì giá trị tiên lượng dương tính kém, nhưng chúng có thể có vai trò bổ trợ trong việc xác định thời điểm có thể chấp nhận ngừng kháng sinh nếu kết quả nuôi cấy vẫn âm tính trong trường hợp nghi ngờ nhiễm khuẩn huyết khởi phát sớm.
Các chất phản ứng giai đoạn cấp tính là các protein được sản xuất bởi gan dưới ảnh hưởng của IL-1 khi có hiện tượng viêm. Loại có được nghiên cứu nhiều nhất trong số này là protein phản ứng C định lượng (CRP). Nồng độ ≥ 1 mg/dL (9,52 nmol/L) (đo bằng nephelometryh - kỹ thuật miễn dịch học) thường được coi là bất thường. Nồng độ cao xảy ra trong vòng 6 đến 8 giờ phát triển nhiễm trùng huyết và đạt đỉnh sau 1 ngày. Độ nhạy của định lượng protein phản ứng C cao hơn nếu đo sau 6 đến 8 giờ sau sinh.
Procalcitonin đang nổi lên như một chất chỉ điểm phản ứng giai đoạn cấp tính của nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh. Mặc dù procalcitonin có vẻ nhạy cảm hơn protein C phản ứng, nhưng nó ít đặc hiệu hơn (4). Sự kết hợp của các chất chỉ điểm sinh học bao gồm procalcitonin và protein phản ứng C có thể hữu ích hơn trong việc xác định thời gian dùng kháng sinh (5).
Tài liệu tham khảo chẩn đoán
1. Escobar GJ, Puopolo KM, Wi S, et al. Stratification of risk of early-onset sepsis in newborns ≥ 34 weeks' gestation. Pediatrics. 2014;133(1):30-36. doi:10.1542/peds.2013-1689
2. Kuzniewicz MW, Walsh EM, Li S, Fischer A, Escobar GJ. Development and Implementation of an Early-Onset Sepsis Calculator to Guide Antibiotic Management in Late Preterm and Term Neonates. Jt Comm J Qual Patient Saf. 2016;42(5):232-239. doi:10.1016/s1553-7250(16)42030-1
3. Russell NJ, Stöhr W, Plakkal N, et al. Patterns of antibiotic use, pathogens, and prediction of mortality in hospitalized neonates and young infants with sepsis: A global neonatal sepsis observational cohort study (NeoOBS). PLoS Med. 2023;20(6):e1004179. Xuất bản ngày 8 tháng 6 năm 2023. doi:10.1371/journal.pmed.1004179
4. Pontrelli G, De Crescenzo F, Buzzetti R, et al. Accuracy of serum procalcitonin for the diagnosis of sepsis in neonates and children with systemic inflammatory syndrome: A meta-analysis. BMC Infect Dis. 2017;17(1):302. doi:10.1186/s12879-017-2396-7
5. Stocker M, van Herk W, El Helou S, et al. C-reactive protein, procalcitonin, and white blood count to rule out neonatal early-onset sepsis within 36 hours: A secondary analysis of the neonatal procalcitonin intervention study. Clin Infect Dis. 2021;73(2):e383–e390. doi:10.1093/cid/ciaa876
Điều trị nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh
Liệu pháp kháng khuẩn
Liệu pháp hỗ trợ
Vì nhiễm khuẩn huyết có thể biểu hiện với các dấu hiệu lâm sàng không đặc hiệu và hậu quả của nó có thể rất nghiêm trọng, và hầu hết các trường hợp là do vi khuẩn, vì vậy cần phải khuyến nghị nhanh chóng dùng liệu pháp kháng sinh theo kinh nghiệm; sau đó điều chỉnh thuốc theo mức độ nhạy cảm và vị trí nhiễm trùng. Nhìn chung, sau đó nếu trẻ không có nguồn lây nhiễm được xác định trên lâm sàng, trẻ hoàn toàn ổn định, các kết quả cấy âm tính, kháng sinh có thể được ngừng sau 48 giờ (sau 72 giờ ở trẻ non tháng).
Các biện pháp hỗ trợ chung, bao gồm hỗ trợ hô hấp và kiểm soát huyết động, được kết hợp với điều trị kháng sinh.
Thuốc kháng sinh
Trong trường hợp nhiễm khuẩn huyết khởi phát sớm, điều trị ban đầu cần phải bao gồm ampicillin cộng với một loại thuốc thuộc nhóm aminoglycosid (ví dụ: gentamicin). Cefotaxime có thể được thêm vào hoặc được thay thế cho aminoglycoside nếu nghi ngờ bị viêm màng não do vi khuẩn gram âm.
Ampicillin có tác dụng với các vi khuẩn như GBS, enterococci và Listeria. Gentamicin có tác dụng hiệp đồng chống lại các vi sinh vật này và cũng điều trị được nhiều bệnh nhiễm trùng gram âm. Cephalosporin thế hệ thứ ba có tác dụng bao phủ với hầu hết các vi khuẩn gram âm. Ceftriaxone bị chống chỉ định ở trẻ sơ sinh tăng bilirubin máu hoặc trẻ đang dùng dung dịch truyền tĩnh mạch có canxi. Kháng sinh có thể được thay đổi ngay khi xác định được vi sinh vật gây bệnh.
Trong nhiễm trùng huyết khởi phát muộn, trẻ sơ sinh trước đó được nhận vào cộng đồng bị nhiễm trùng huyết khởi phát muộn cũng nên được điều trị bằng ampicillin cộng với gentamicin hoặc ampicillin cộng với cefotaxime. Nếu nghi ngờ viêm màng não do vi khuẩn gram âm, có thể dùng ampicillin, cefotaxime và aminoglycoside. Trong trường hợp nhiễm khuẩn huyết mắc phải ở bệnh viện khởi phát muộn, liệu pháp ban đầu nên bao gồm vancomycin (có tác dụng chống lại S. aureus kháng methicillin) kèm theo một loại thuốc thuộc nhóm aminoglycoside. Nếu nghi ngờ nhiễm P. aeruginosa chỉ định ceftaidime, cefepime, hoặc piperacillin/tazobactam có thể được sử dụng bổ sung hoặc thay cho aminoglycoside tùy thuộc vào sự nhạy cảm của vi khuẩn theo từng đơn vị.
Đối với trẻ sơ sinh đã được điều trị bằng aminoglycoside đủ trong 7 ngày đến 14 ngày và cần điều trị lại, nên cân nhắc dùng một loại thuốc thuộc nhóm aminoglycoside khác hoặc cephalosporin thế hệ thứ ba.
Nếu nghi ngờ tụ cầu không đông huyết tương (coagulase-negative staphylococci) ở các bệnh nhân có yếu tố nguy cơ như vị trí đặc catherer bị sưng kéo dài > 72 giờ hoặc được phân lập từ máu hoặc chất dịch vô trùng bình thường khác và được coi là mầm bệnh, liệu pháp ban đầu cho nhiễm trùng huyết khởi phát muộn nên bao gồm vancomycin. Tuy nhiên, nếu cơ thể nhạy cảm với nafcillin, cefazolin hoặc nafcillin có thể thay thế vancomycin. Việc loại nguồn mang bệnh như vị trí catheter bị sưng nề là cần thiết để điều trị nhiễm trùng. Ngoài ra, coagulase-negative staphylococci có thể được bảo vệ bằng một màng sinh học (lớp phủ bảo vệ ngăn cách vi khuẩn với catheter).
Bởi vì Candida có thể mất từ 2 đến 3 ngày để phát triển trong nuôi cấy máu, việc bắt đầu điều trị amphotericin B deoxycholate theo kinh nghiệm và loại bỏ catheter nhiễm bệnh trước khi csoo kết quả cấy mới có thể cứu sống bệnh nhân.
Liệu pháp kháng vi rút nên được bắt đầu khi chẩn đoán phân biệt là vi rút herpes simplex, vi rút varicella-zoster và cytomegalovirus.
Điều trị khác
Truyền máu đã được sử dụng cho trẻ sơ sinh nặng (đặc biệt là hạ huyết áp và toan chuyển hóa). Với hiệu quả làm tăng lượng globulin tuần hoàn, làm giảm lượng endotoxin tuần hoàn, tăng mức hemoglobin (với mức 2,3-diphosphoglycerate cao hơn) và cải thiện tưới máu. Tuy nhiên, bằng chứng hỗ trợ liệu pháp này còn chưa rõ ràng và chưa đủ để khuyến nghị sử dụng (1).
Huyết tương tươi đông lạnh có thể giúp đảo ngược tình trạng thiếu hụt opsonin bền nhiệt và không bền nhiệt xảy ra ở trẻ sơ sinh LBW, nhưng các nghiên cứu có kiểm soát về việc sử dụng huyết tương này vẫn chưa có và cần phải cân nhắc đến các nguy cơ liên quan đến truyền máu (2).
Truyền bạch cầu hạt (xem Bạch cầu (WBC)) đã được sử dụng ở trẻ sơ sinh bị nhiễm khuẩn huyết và giảm bạch cầu hạt nhưng không cải thiện đáng kể kết quả.
Các yếu tố kích thích quần thể tái tổ hợp (G-CSF)-yếu tố kích thích hoạt hóa bạch cầu hạt [GM-CSF]- yếu tố hoạt hóa thực bào đã làm tăng số lượng và chức năng bạch cầu trung tính ở trẻ sơ sinh có giả định làm cải thiện tình trạng nhiễm khuẩn huyết nhưng thức tế chưa có hiệu quả ở mọi trẻ sơ sinh có giảm bạch cầu nặng; cần phải được nghiên cứu thêm.
Tài liệu tham khảo về điều trị
1. Mathias S, Balachander B, Bosco A, Britto C, Rao S. The effect of exchange transfusion on mortality in neonatal sepsis: a meta-analysis. Eur J Pediatr. 2022;181(1):369-381. doi:10.1007/s00431-021-04194-w
2. Sokou R, Parastatidou S, Konstantinidi A, et al. Fresh frozen plasma transfusion in the neonatal population: A systematic review. Blood Rev. 2022;55:100951. doi:10.1016/j.blre.2022.100951
Tiên lượng về nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh
Tỷ lệ tử vong chung của nhiễm khuẩn huyết khởi phát sớm là 18% (tỷ lệ tử vong của nhiễm trùng GBS khởi phát sớm là 2% đến 10%) và của nhiễm khuẩn huyết khởi phát muộn lên tới 12% (thấp hơn đối với nhiễm khuẩn huyết khởi phát muộn ở cộng đồng so với nhiễm khuẩn huyết khởi phát muộn mắc phải ở bệnh viện). Tỷ lệ tử vong ở nhiễm khuẩn huyết khởi phát muộn phụ thuộc rất nhiều vào vi sinh vật gây bệnh.
Trẻ sơ sinh bị sốc nhiễm trùng có tỷ lệ tử vong cao hơn (lên tới 40%), trong khi những trẻ có cân nặng khi sinh thấp hoặc rất thấp có tỷ lệ tử vong cao hơn và kết quả phát triển thần kinh kém hơn (1).
Tài liệu tham khảo về tiên lượng bệnh
1. Giannoni E, Agyeman PKA, Stocker M, et al. Neonatal Sepsis of Early Onset, and Hospital-Acquired and Community-Acquired Late Onset: A Prospective Population-Based Cohort Study. J Pediatr. 2018;201:106-114.e4. doi:10.1016/j.jpeds.2018.05.048
Phòng ngừa nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh
Trẻ sơ sinh có vẻ khỏe mạnh vẫn có thể có nguy cơ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B (GBS). Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) và Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) hiện khuyến nghị cách xử lý những trẻ sơ sinh này tùy thuộc vào một số yếu tố (1, 2), bao gồm:
Có nhiễm trùng trong màng ối ở mẹ
Liệu việc phòng ngừa GBS ở mẹ có được chỉ định và thực hiện một cách thích hợp hay không
Tuổi thai và thời gian vỡ ối
Nếu không có nhiễm trùng trong màng ối hoặc không có chỉ định phòng ngừa GBS thì không cần xét nghiệm hoặc điều trị.
Nếu có hoặc rất nghi ngờ nhiễm trùng trong màng ối, trẻ sơ sinh đủ tháng và sinh non cần được cấy máu khi sinh và bắt đầu điều trị bằng kháng sinh phổ rộng theo kinh nghiệm. Các xét nghiệm khác bao gồm công thức máu và công thức bạch cầu và CRP ở thời điểm 6 đến 12 giờ sau sinh. Các chỉ định tiếp theo phụ thuộc vào triệu chứng lâm sàng và kết quả của các xét nghiệm trước đó.
Nếu chỉ định phòng ngừa GBS cho mẹ và thực hiện đúng cách (tức là cho dùng penicillin, ampicillin hoặc cefazolin đường tĩnh mạch trong ≥ 4 giờ), trẻ sơ sinh nên được theo dõi tại bệnh viện trong 48 giờ; chỉ tiến hành xét nghiệm và điều trị nếu các triệu chứng xuất hiện. Với trẻ ≥ 37 tuần tuổi thai, có người chăm sóc và theo dõi phù hợp thì có thể xuất viện sau 24 giờ.
Nếu không được phòng ngừa GBS đầy đủ, trẻ sơ sinh sẽ được theo dõi tại bệnh viện trong vòng 36 giờ đến 48 giờ mà không điều trị bằng thuốc kháng khuẩn. Nếu màng ối vỡ ≥ 18 giờ trước khi sinh hoặc tuổi thai < 37 tuần, trẻ nên được chỉ định nuôi cấy máu, công thức máu bạch cầu và CRP khi sinh và/hoặc từ 6 đến 12 giờ. Các triệu chứng lâm sàng và kết quả của phòng thí nghiệm giúp hướng dẫn điều trị.
Các phương pháp tiếp cận thay thế để phân tầng nguy cơ ở trẻ sơ sinh liên quan đến nhiễm khuẩn huyết khởi phát sớm dựa trên cả các yếu tố nguy cơ ở mẹ và việc khám trẻ sơ sinh liên tục đang được triển khai rộng rãi hơn.
Việc cung cấp globulin miễn dịch để tăng cường phản ứng miễn dịch của trẻ sơ sinh đã không được chứng minh là giúp ngăn ngừa hoặc điều trị nhiễm khuẩn huyết.
Chỉ định cho mẹ điều trị dự phòng liên cầu nhóm B
Tất cả các bệnh nhân mang thai nên được sàng lọc để xem có quần cơ GBS không ở khoảng 35 tuần đến 37 tuần tuổi thai bằng cách sử dụng cả nuôi cấy dịch âm đạo và nuôi cấy dịch trực tràng (3).
Phụ nữ có kết quả sàng lọc GBS dương tính và/hoặc vi khuẩn GBS niệu bất cứ lúc nào trong thai kỳ hiện tại nên được dự phòng kháng sinh khi bắt đầu chuyển dạ hoặc vỡ ối. Không bắt buộc phải dùng kháng sinh dự phòng cho những bệnh nhân mổ lấy thai trước khi bắt đầu chuyển dạ và trước khi vỡ ối.
Phụ nữ có kết quả sàng lọc GBS âm tính nên được chỉ định dùng kháng sinh trong khi chuyển dạ nếu trước đây họ đã sinh con bị bệnh GBS xâm lấn.
Những phụ nữ không rõ tình trạng nhiễm GBS (ví dụ: vì không được kiểm tra hoặc kết quả không có) nên dùng kháng sinh trong khi chuyển dạ nếu ≥ 1 trong số các yếu tố sau:
< 37 tuần tuổi thai
Vỡ ối kéo dài ≥ 18 giờ
Nhiệt độ trong khi chuyển dạ ≥ 38°C
Xét nghiệm khuếch đại axit nucleic trong khi chuyển dạ (NAAT) dương tính với GBS (đối với những bệnh nhân có NAAT trong khi chuyển dạ âm tính với GBS, nên dùng kháng sinh dự phòng nếu có các yếu tố nguy cơ khác)
Sàng lọc GBS dương tính đã biết trong lần mang thai trước
Những phụ nữ được sàng lọc GBS dương tính trong một lần mang thai có 50% xác suất nhiễm GBS trong lần mang thai tiếp theo (4).
Kháng sinh thường được sử dụng bao gồm penicillin, ampicillin hoặc cefazolin và nên cho dùng tĩnh mạch trong thời gian ≥ 4 giờ trước khi sinh. Sự lựa chọn kháng sinh nên tính đến các mô hình kháng kháng sinh của GBS ở từng nơi.
Tài liệu tham khảo về phòng ngừa
1. Brady MT, Polin RA. Prevention and management of infants with suspected or proven neonatal sepsis. Pediatrics. 2013;132:166-8. doi:10.1542/peds.2013-1310
2. Polin RA and the Committee on Fetus and Newborn.Management of neonates with suspected or proven early-onset bacterial sepsis. Pediatrics. 2012;129:1006-1015. doi:10.1542/peds.2012-0541
3. Prevention of Group B Streptococcal Early-Onset Disease in Newborns: ACOG Committee Opinion, Number 797 [published correction appears in Obstet Gynecol. Tháng 4 năm 2020;135(4):978-979. doi: 10.1097/AOG.0000000000003824]. Obstet Gynecol. 2020;135(2):e51-e72. doi:10.1097/AOG.0000000000003668
4. Puopolo KM, Lynfield R, Cummings JJ, et al. Management of infants at risk for group B streptococcal disease. Pediatrics. 2019;144(2):e20191881. doi:10.1542/peds.2019-1881
Những điểm chính
Nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh có thể là khởi phát sớm (≤ 3 ngày sinh) hoặc khởi phát muộn (sau 3 ngày).
Nhiễm khuẩn huyết khởi phát sớm thường là do vi khuẩn lây truyền trong khi chuyển dạ và các triệu chứng xuất hiện trong vòng 6 giờ sau khi sinh.
Nhiễm khuẩn huyết khởi phát muộn thường có do môi trường và có nguy cơ cao ở trẻ non tháng, đặc biệt là những trẻ nhập viện kéo dài, sử dụng đường truyền tĩnh mạch.
Các dấu hiệu ỏ giai đoạn đầu thường không đặc hiệu và khó nhận biết và sốt xuất hiện ở < 10% số trẻ sơ sinh.
Thực hiện cấy máu và cấy dịch não tủy và đối với nhiễm khuẩn huyết khởi phát muộn, cũng cần cấy nước tiểu.
Điều trị nhiễm khuẩn huyết khởi phát sớm ban đầu bằng ampicillin cộng với gentamicin (và/hoặc cefotaxime nếu nghi ngờ viêm màng não do vi khuẩn gram âm), sau đó thu hẹp phạm vi điều trị xuống các loại thuốc đặc hiệu với vi khuẩn càng sớm càng tốt.
Tiêm phòng liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) trong khi chuyển dạ cho những phụ nữ có nguy cơ lây truyền GBS cho trẻ sơ sinh.
