Viêm màng não do vi khuẩn sơ sinh

TheoAnnabelle de St. Maurice, MD, MPH, UCLA, David Geffen School of Medicine
Xem xét bởiBrenda L. Tesini, MD, University of Rochester School of Medicine and Dentistry
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 4 2025 | đã sửa đổi Thg 7 2025
v1091990_vi

Viêm màng não do vi khuẩn ở trẻ sơ sinh là tình trạng viêm ở màng não do sự xâm nhập của vi khuẩn. Các dấu hiệu bao gồm nhiễm khuẩn huyết, kích thích hệ thần kinh trung ương (ví dụ: lờ đờ, co giật, nôn, cáu kỉnh [đặc biệt là cáu kỉnh nghịch thường], cứng gáy, thóp phồng) và bất thường ở dây thần kinh sọ. Chẩn đoán là do chọc dò thắt lưng. Điều trị bằng thuốc kháng sinh.

(Xem thêm Viêm màng não ở người lớn, Viêm màng não do vi khuẩn ở trẻ sơ sinh trên 3 tháng tuổiTổng quan về nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh.)

Viêm màng não do vi khuẩn ở trẻ sơ sinh xảy ra ở 3/10.000 trẻ đủ tháng và 1/1.000 trẻ sơ sinh nhẹ cân (LBW) (1). Nguy cơ viêm màng não cao hơn ở trẻ sơ sinh bị nhiễm khuẩn huyết và đôi khi xảy ra riêng biệt. Tỷ lệ viêm màng não ở trẻ sơ sinh đã giảm đáng kể ở Hoa Kỳ do dự phòng bệnh liên cầu nhóm B khởi phát sớm (2).

Tài liệu tham khảo chung

  1. 1. Okike IO, Johnson AP, Henderson KL, et al. Incidence, etiology, and outcome of bacterial meningitis in infants aged <90 days in the United kingdom and Republic of Ireland: prospective, enhanced, national population-based surveillance. Clin Infect Dis. 2014;59(10):e150-e157. doi:10.1093/cid/ciu514

  2. 2. Schrag SJ, Farley MM, Petit S, et al. Epidemiology of Invasive Early-Onset Neonatal Sepsis, 2005 to 2014. Pediatrics. 2016;138(6):e20162013. doi:10.1542/peds.2016-2013

Căn nguyên của viêm màng não do vi khuẩn ở trẻ sơ sinh

Các tác nhân gây bệnh chủ yếu là:

Các mầm bệnh khác bao gồm enterococci, streptococci nhóm D không ở ruột, streptococci tan huyết alpha, Staphylococcus aureus, staphylococci coagulase-âm tính, mầm bệnh gram âm ở ruột (ví dụ: chủng Klebsiella, chủng Enterobacter, Citrobacter diversus), Haemophilus influenzae, Neisseria meningitidisStreptococcus pneumoniae.

Viêm màng não do vi khuẩn ở trẻ sơ sinh thường là hậu quả của tình trạng vãng khuẩn huyết xảy ra khi có nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh; số lượng khuẩn lạc trong máu nuôi cấy càng cao thì nguy cơ viêm màng não càng cao.

Viêm màng não ở trẻ sơ sinh cũng có thể do tổn thương da đầu, đặc biệt là khi các khuyết tật trong phát triển dẫn đến sự thông trực tiếp từ ngoài da vào trong khoáng dưới nhện, gây ra viêm tắc mạch máu và nhiễm khuẩn. Hiếm khi, có sự thông trực tiêp từ khu vực nền sọ vào hệ thần kinh trung ương (CNS) (ví dụ, viêm tai giữa).

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh viêm màng não do vi khuẩn ở trẻ sơ sinh

Thông thường, có các triệu chứng điển hình của nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh (ví dụ: thân nhiệt không ổn định, suy hô hấp, vàng da, ngưng thở). Dấu hiệu tổn thương thần kinh (ví dụ như lơ mơ, co giật (đặc biệt là cục bộ), nôn mửa, kích thích) đặc hiệu với viêm màng não do sơ sinh. Cái gọi là cáu kỉnh nghịch thường, trong đó việc ôm ấp và an ủi của cha mẹ sẽ kích thích hơn là an ủi trẻ sơ sinh (vì cử động của màng não bị viêm gây đau), cụ thể hơn cho chẩn đoán. Thóp phồng hoặc gáy cứng chỉ xảy ra ở khoảng 20% số ​​trẻ sơ sinh; bệnh nhân càng nhỏ tuổi thì những dấu hiệu này càng ít phổ biến (1). Các bất thường dây thần kinh sọ (đặc biệt là các dây thần kinh thứ 3, thứ 6 và 7).

Viêm màng não do liên cầu khuẩn nhóm B (viêm màng não GBS) có thể xảy ra trong tuần đầu tiên của cuộc đời, kèm theo nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh khởi phát sớm và thường biểu hiện ban đầu là một bệnh toàn thân với các dấu hiệu hô hấp nổi bật. Tuy nhiên, viêm màng não GBS xuất hiện sau giai đoạn này (sau 3 tháng tuổi) sẽ có biểu hiện khu trú hơn, được đặc trưng bởi: không có tiến sử sản khoa hoặc chu sinh đặc biệt, các dấu hiệu của viêm màng não (ví dụ như sốt, lơ mơ, động kinh) cũng biểu hiện rõ ràng hơn.

Viêm não thất có thể đi kèm với viêm màng não ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là do căn nguyên vi khuẩn gram âm đường ruột. Các sinh vật gây viêm màng não cùng với viêm mạch nặng, đặc biệt là C. diversusCronobacter sakazakii, có khả năng gây ra u nang và áp xe. Pseudomonas aeruginosa, E. coli K1 và chủng Serratia cũng có thể gây ra áp xe não. Dấu hiệu lâm sàng sớm của áp xe não là tăng áp lực nội sọ (ICP), thường biểu hiện bằng việc nôn, thóp phồng và tăng kích thước vòng đầu. Dấu hiệu trẻ sơ sinh viêm màng não mủ đột ngột xấu đi có thể liên quan đến tình trạng tăng áp lực nội sọ do khối áp xe, não úng thủy hoặc khối áp xe với vào não thất.

Ngọc trai & cạm bẫy

  • Ở trẻ sơ sinh bị viêm màng não, các dấu hiệu cổ điển không phổ biến; thóp phồng hoặc gáy cứng chỉ xảy ra ở khoảng 20% ​​số trẻ sơ sinh.

Tài liệu tham khảo về các triệu chứng và dấu hiệu

  1. 1. Curtis S, Stobart K, Vandermeer B, Simel DL, Klassen T. Clinical features suggestive of meningitis in children: a systematic review of prospective data. Pediatrics. 2010;126(5):952-960. doi:10.1542/peds.2010-0277

Chẩn đoán viêm màng não do vi khuẩn ở trẻ sơ sinh

  • Số tế bào dịch não tủy (CSF), định lượn glucose và protein, nhuộm soi Gram, cấy

  • Xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase (PCR)

  • Đôi khi siêu âm hoặc chụp CT hoặc chụp MRI não

Chẩn đoán xác định viêm màng não do vi khuẩn sơ sinh được thực hiện bằng xét nghiệm dịch não tủy. Chọc dò tủy sống (LP), cần phải được thực hiện ở bất kỳ trẻ sơ sinh nào nghi ngờ bị nhiễm khuẩn huyết hoặc viêm màng não. Tuy nhiên, LP có thể khó thực hiện ở trẻ sơ sinh và có một số nguy cơ thủ thuật này gây ra tình trạng thiếu oxy. Tình trạng lâm sàng kém (ví dụ: suy hô hấp, sốc, giảm tiểu cầu) có thể làm tăng nguy cơ. Cần sử dụng kim chọc dò có nòng troca để tránh đẩy các tế bào biểu mô ngoài da vào trong ống sống - nguy cơ phát triển u hạt biểu mô sắc tố trong ống sống.

Nồng độ glucose thấp, protein tăng và số lượng bạch cầu cao trong dịch não tủy gợi ý viêm màng não do vi khuẩn. Các giá trị dịch não tủy bình thường cồn đang gây tranh cãi và liên quan đến tuổi tác. Nhìn chung, cả trẻ đủ tháng và trẻ sinh non không bị viêm màng não đều có 10 đến 14 tế bào bạch cầu/mcL (0,010 đến 0,014 × 109/L) trong dịch não tủy, một phần năm trong số đó có thể là bạch cầu đa nhân trung tính. Nồng độ protein trong dịch não tủy khi không có viêm màng não thay đổi nhiều hơn; trẻ đủ tháng có nồng độ < 110 đến 160 mg/dL (từ 1,1 đến 1,6 g/L), trong khi trẻ sinh non có nồng độ lên tới 210 mg/dL (2,1 g/L). Nồng độ glucose trong dịch não tủy bình thường là > 75% giá trị huyết thanh được đo cùng một thời điểm. Các mức này có thể thấp đến 20 đến 30 mg/dL (1,1 đến 1,7 mmol/L). Viêm màng não do vi khuẩn đã được xác định bằng nuôi cấy ở trẻ sơ sinh có chỉ số dịch não tủy bình thường, cho thấy giá trị dịch não tủy bình thường không loại trừ chẩn đoán viêm màng não (1, 2). Nếu LP bị trì hoãn, kết quả dịch não tủy sẽ kém tin cậy hơn; tuy nhiên, ngay cả khi tình trạng lâm sàng cải thiện, có các các tế bào viêm và nồng độ glucose và protein bất thường trong dịch não tủy vài ngày sau khi phát bệnh có thể gợi ý viêm màng não.

Dịch não tủy cũng cần được nuôi cấy, ngay cả khi có máu hoặc không có tế bào. Trong một số trường hợp, đặc biệt là nếu dịch não tủy được lấy sau khi bắt đầu dùng kháng sinh (trước điều trị), các bảng xét nghiệm PCR đa thành phần có thể cung cấp thêm giá trị chẩn đoán. Chọc lại dịch não tủy giúp hướng dẫn thời gian điều trị và tiên lượng bệnh. Có thể lặp lại chọc dịch não tủy sau 24 đến 48 giờ nếu đáp ứng lâm sàng còn nghi ngờ; sau 24 giờ đến 48 giờ ở trẻ sơ sinh bị viêm màng não do GBS và sau 72 giờ khi liên quan đến vi khuẩn gram âm. Không có chỉ định chọc lại dịch não tủy khi kết thúc đợt điều trị nếu trẻ sơ sinh tiến triển tốt.

Viêm não thất cần được đặt ra khi trẻ sơ sinh không đáp ứng với liệu pháp kháng sinh. Chẩn đoán được thực hiện khi chọc dò não thất thu được số lượng bạch cầu lớn hơn số lượng bạch cầu từ chọc dịch não tủy, bằng nhuộm Gram dương tính hoặc nuôi cấy dịch não thất, hoặc do tăng áp lực não thất. Khi nghi ngờ viêm não thất hoặc áp xe não, siêu âm hoặc chụp MRI hoặc chụp CT có thuốc cản quang có thể hỗ trợ chẩn đoán; các não thất giãn cũng xác nhận tình trạng viêm não thất.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

  1. 1. Srinivasan L, Shah SS, Padula MA, Abbasi S, McGowan KL, Harris MC. Cerebrospinal fluid reference ranges in term and preterm infants in the neonatal intensive care unit. J Pediatr. 2012;161(4):729-734. doi:10.1016/j.jpeds.2012.03.051

  2. 2. Zimmermann P, Curtis N. Normal Values for Cerebrospinal Fluid in Neonates: A Systematic Review. Neonatology. 2021;118(6):629-638. doi:10.1159/000517630

Điều trị viêm màng não do vi khuẩn ở trẻ sơ sinh

  • Ampicillin theo kinh nghiệm kết hợp với gentamicin, cefotaxime hoặc cả hai, tiếp theo là kháng sinh đặc hiệu với vi khuẩn trên nuôi cấy

Liệu pháp kháng sinh theo kinh nghiệm

Điều trị theo kinh nghiệm ban đầu phụ thuộc vào tuổi bệnh nhân và vẫn còn nhiều tranh cãi. Đối với trẻ sơ sinh, nhiều chuyên gia khuyên dùng ampicillin kết hợp với aminoglycoside (ví dụ: gentamicin). Cephalosporin thế hệ thứ ba (ví dụ: cefotaxime) cũng được thêm vào cho đến khi có kết quả nuôi cấy và độ nhạy nếu nghi ngờ viêm màng não do vi khuẩn gram âm. Tuy nhiên, khả năng kháng thuốc có thể phát sinh nhanh hơn khi cefotaxime được sử dụng thường xuyên để điều trị theo kinh nghiệm và việc sử dụng cephalosporin thế hệ thứ ba trong thời gian dài là yếu tố nguy cơ gây bệnh nấm candida xâm lấn. Ampicillin có tác dụng với các vi khuẩn như GBS, enterococci và Listeria. Gentamicin có tác dụng hiệp đồng chống lại các vi sinh vật này và cũng điều trị được nhiều bệnh nhiễm trùng gram âm. Cephalosporin thế hệ thứ ba có tác dụng bao phủ với hầu hết các vi khuẩn gram âm.

Trẻ sơ sinh nhập viện trước đó đã được dùng kháng sinh (ví dụ: để điều trị nhiễm khuẩn huyết khởi phát sớm) có thể có vi khuẩn kháng thuốc; bệnh nấm cũng có thể được xem xét ở trẻ sơ sinh có biểu hiện nhiễm khuẩn huyết sau thời gian nằm viện kéo dài. Trẻ sơ sinh bị bệnh nhiễm trùng mắc phải ở bệnh viện ban đầu nên được dùng vancomycin kết hợp với một aminoglycoside có hoặc không có cephalosporin thế hệ thứ ba hoặc một carbapenem có hoạt tính chống lại Pseudomonas aeruginosa, chẳng hạn như cefepime hoặc meropenem, tùy thuộc vào mối lo ngại về viêm màng não.

Kháng sinh được điều chỉnh khi có kết quả nuôi cấy dịch não tủy. Kết quả nhuộn Gram không được dùng để thu hẹp mức độ bao phủ của kháng sinh trước khi có kết quả cấy dịch não tủy.

Liệu pháp kháng sinh đặc hiệu

Phương pháp điều trị ban đầu được khuyến nghị để điều trị viêm màng não do GBS ở trẻ sơ sinh < 1 tuần tuổi là penicillin G hoặc ampicillin. Ngoài ra, gentamicin được dùng để tạo tác dụng hiệp đồng ở liều lượng phù hợp với lứa tuổi. Có thể ngừng dùng Gentamicin nếu có cải thiện về mặt lâm sàng, sinh vật lây nhiễm nhạy cảm với penicillin đang được sử dụng và việc khử trùng dịch não tủy được ghi nhận.

Đối với enterococci hoặc L. monocytogenes, điều trị thường là ampicillin kèm theo gentamicin trong toàn bộ liệu trình.

Trong viêm màng não do vi khuẩn gram âm, điều trị rất khó khăn. Nếu không biết rõ mức độ nhạy cảm, nên sử dụng cephalosporin phổ rộng như cefotaxime theo kinh nghiệm. Khi đã biết được mức độ nhạy cảm, nên áp dụng liệu pháp điều trị nhắm đích bằng thuốc có hiệu quả. Thông thường có thể ngừng sử dụng aminoglycoside nếu dịch não tủy đã vô trùng.

Liệu pháp tiêm truyền được áp dụng tối thiểu trong 14 ngày đối với viêm màng não do vi khuẩn gram dương và tối thiểu trong 21 ngày đối với viêm màng não do vi khuẩn gram dương hoặc vi khuẩn gram âm có biến chứng. Không khuyến cáo sử dụng thuốc kháng sinh vào não thất.

Các biện pháp hỗ trợ

Vì viêm màng não có thể được coi là một phần của chuỗi nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh, các biện pháp bổ sung được sử dụng để phòng ngừađiều trị nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh cũng nên được sử dụng để phòng ngừa và điều trị viêm màng não ở trẻ sơ sinh.

Corticosteroid không được sử dụng để điều trị viêm màng não ở trẻ sơ sinh.

Bệnh nhân cần theo dõi chặt chẽ các biến chứng thần kinh trong thời thơ ấu, bao gồm cả kiểm tra về thính lực.

Tiên lượng về bệnh viêm màng não do vi khuẩn ở trẻ sơ sinh

Không điều trị, tỷ lệ tử vong do viêm màng não ở trẻ sơ sinh đạt tới 100%.

Khi được điều trị, tỷ lệ tử vong do viêm màng não ở trẻ sơ sinh là từ 5% đến 20%.

Tiên lượng được xác định dựa trên cân nặng khi sinh, cơ thể và mức độ nặng về mặt lâm sàng. Đối với vi khuẩn gây ra viêm não thất hoặc áp xe não (viêm hoại tử hoại tử), tỷ lệ tử vong có thể đạt 75%.

Tiên lượng cũng phụ thuộc một phần vào số lượng vi khuẩn có trong dịch não tủy khi chẩn đoán. Thời gian nuôi cấy dịch não tủy dương tính với vi khuẩn tương quan trực tiếp với tỷ lệ biến chứng. Nhìn chung, trong viêm màng não mủ do liên cầu B, dịch não tủy thường sạch vi khuẩn sau 24 giờ điều trị kháng sinh. Bệnh nhân viêm màng não mủ do nguyên nhân vi khuẩn gram âm, thời gian sạch vi khuẩn thường kéo dài hơn, trung bình là 2 ngày.

Viêm màng não do liên cầu B có tỷ lệ tử vong thấp hơn đáng kể so với nhiễm khuẩn huyết do liên cầu B khởi phát sớm.

Di chứng thần kinh (ví dụ, não úng thủy, mất thính giác, khuyết tật về trí tuệ) tiến triển ở 20% đến 50% trẻ sơ sinh sống sót, tiên lượng kém hơn với các trường hợp nhiễm vi khuẩn gram âm.

Những điểm chính

  • Nguyên nhân phổ biến nhất gây viêm màng não do vi khuẩn ở trẻ sơ sinh là steptococcus nhóm B, E. coli, và L. monocytogenes.

  • Biểu hiện lâm sàng thường không đặc hiệu (ví dụ: thân nhiệt không ổn định, khó thở, vàng da, ngưng thở).

  • Mặc dù có thể có các dấu hiệu của hệ thần kinh trung ương (ví dụ: lờ đờ, co giật, nôn, cáu kỉnh), nhưng các dấu hiệu điển hình như thóp phồng và gáy cứng không phổ biến.

  • Cấy dịch não tủy (CSF) tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán. Một số trẻ sơ sinh bị viêm màng não vẫn có thể chỉ số dịch não tủy bình thường (số lượng bạch cầu, protein và nồng độ glucose).

  • Bắt đầu điều trị theo kinh nghiệm bằng ampicillin, gentamicin và cefotaxime, sau đó dùng thuốc cụ thể dựa trên kết quả nuôi cấy và xét nghiệm độ nhạy cảm.

  • Corticosteroid không được sử dụng trong viêm màng não sơ sinh.

quizzes_lightbulb_red
Test your KnowledgeTake a Quiz!