MSD Manual

Hãy xác nhận rằng quý vị là chuyên gia chăm sóc sức khỏe

honeypot link

Vãng khuẩn huyết ẩn và sốt không rõ căn nguyên ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ

Theo

Geoffrey A. Weinberg

, MD, Golisano Children’s Hospital

Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg9 2021
Nguồn chủ đề

Vãng khuẩn huyết ẩn là sự hiện diện của vi khuẩn trong máu trẻ nhỏ không có biểu hiện ổ nhiễm trùng rõ ràng và trông thể trạng tốt Chẩn đoán là do nuôi cấy máu và loại trừ nhiễm trùng cục bộ. Chẩn đoán là do nuôi cấy máu và loại trừ nhiễm trùng cục bộ. Điều trị bằng kháng sinh, ở trong bệnh viện hoặc ở ngoại trú; trẻ nhất định được điều trị cho đến khi kết quả nuôi cấy máu.

Trẻ em từ 3 đến 36 tháng tuổi

Trong thời kỳ trước khi tiêm vắc xin liên hợp, khoảng 3 đến 5% trẻ em từ 3 đến 36 tháng tuổi có sốt cao (nhiệt độ 39°C) và không có bất thường cục bộ (chẳng hạn sốt mà không có nguồn) đã có vãng khuẩn khuẩn huyết ẩn. Ngược lại, trẻ em > 36 tháng với vãng khuẩn huyết gần như luôn có vẻ ốm và có một ở nhiễm trùng xác định (tức là không ẩn kín) Phần lớn (80%) của vãng khuẩn huyết ẩn trước khi chủng ngừa liên hợp thường quy là do Phế cầu khuẩn Nhiễm liên cầu Liên cầu là các vi khuẩn Gram dương hiếu khí gây ra nhiều chứng rối loạn, bao gồm viêm họng, viêm phổi, nhiễm trùng vết thương và da, nhiễm trùng huyết, và viêm nội tâm mạc. Các triệu chứng... đọc thêm Nhiễm liên cầu . Một tỷ lệ nhỏ hơn (10%) là do Haemophilus influenzae nhóm b Nhiễm khuẩn Haemophilus Loài vi khuẩn gram âm Haemophilus gây nhiều nhiễm trùng nhẹ và nghiêm trọng, bao gồm vãng khuẩn huyết, viêm màng não, viêm phổi, viêm xoang, viêm tai giữa, viêm tế bào và viêm thanh quản... đọc thêm , và thậm chí còn nhỏ hơn (5%) do Neisseria meningitidis Bệnh Meningococcal Meningococci (Neisseria meningitidis) là những song cầu khuẩn gram âm gây viêm màng não mủ và nhiễm trùng huyết. Các triệu chứng, thường là nặng, bao gồm đau đầu, buồn nôn, nôn, sợ ánh... đọc thêm Bệnh Meningococcal gây ra.

Vãng khuẩn huyết ẩn gây lo ngại là do khoảng 5 đến 10% số trẻ em mắc bệnh nhiễm khuẩn nặng - thường được định nghĩa là nhiễm khuẩn huyết Nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh Nhiễm khuẩn sơ sinh là tình trạng bị các tác nhân vi sinh vật xâm lần, thường là do vi khuẩn xảy ra trong giai đoạn sơ sinh. Dấu hiệu nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh rất đa dạng và không đặc hiệu... đọc thêm , viêm màng não Viêm màng não nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh trên 3 tháng tuổi Viêm màng não do vi khuẩn ở trẻ nhũ nhi là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng của màng não và khoang dưới nhện. Trẻ nhũ nhi có thể có các triệu chứng và dấu hiệu không đặc hiệu (ví dụ như li... đọc thêm nhiễm trùng đường tiết niệu Nhiễm khuẩn tiết niệu (UTI) ở trẻ em Nhiễm khuẩn tiết niệu (UTI) được xác định bởi ≥ 5 × 104 các khuẩn lạc/mL trong mẫu nước tiểu đã được thông báo hoặc, ở trẻ lớn hơn, bằng mẫu lặp lại với ≥ 105 khuẩn lạc/mL... đọc thêm , mà còn bao gồm viêm khớp nhiễm khuẩn Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp tính Viêm khớp nhiễm trùng (nhiễm trùng) cấp tính là bệnh nhiễm trùng khớp tiến triển trong vài giờ hoặc vài ngày. Nhiễm trùng ở bao hoạt dịch hoặc các mô xung quanh ổ khớp thường do vi khuẩn – ở... đọc thêm Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp tính viêm tuỷ xương Viêm xương tủy Viêm tủy xương là tình trạng viêm và phá hủy cấu trúc xương do vi khuẩn, lao hoặc nấm gây ra. Triệu chứng thường gặp là đau xương khu trú và các triệu chứng toàn thân (trong tủy xương cấp tính)... đọc thêm Viêm xương tủy . Nhiễm trùng như vậy có thể được giảm thiểu bằng cách xác định sớm và điều trị bệnh nhiễm trùng máu. Khả năng tiến triển đến các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng phụ thuộc vào nguyên nhân: 7 đến 25% đối với bệnh nhiễm khuẩn do H. influenzae nhóm b nhưng 4-6% đối với bệnh nhiễm khuẩn gây ra bởi S. pneumoniae.

Hiện nay ở Hoa Kỳ và Châu Âu, việc tiêm phòng định kỳ cho trẻ sơ sinh bằng vắc xin liên hợp polysaccharide chống lại S. pneumoniae Vắc xin phế cầu khuẩn Bệnh phế cầu (ví dụ, viêm tai giữa, viêm phổi, nhiễm trùng huyết, viêm màng não) là do một số trong số > 90 kiểu huyết thanh Streptococcus pneumoniae (phế cầu). Vắc-xin được tiêm trực... đọc thêm H. influenzae type b Vắc-xin Haemophilus influenzae loại b (Hib) Vắc xin Haemophilus influenzae loại b (Hib) giúp ngăn ngừa các bệnh nhiễm trùng do Haemophilus nhưng không phải các bệnh nhiễm trùng do các chủng vi khuẩn H. influenzae khác gây... đọc thêm đã loại bỏ (> 99%) nhiễm H. influenzae type b và giảm đáng kể (≥ 70% tổng thể và ≥ 90% loại vắc-xin) nhiễm S. pneumoniae xâm lấn. Do đó, trong nhóm tuổi này, bệnh nhiễm trùng máu trầm trọng đã trở nên hiếm hoi ngoại trừ trẻ em bị dị ứng hoặc không được miễn dịch, và ở trẻ bị suy giảm miễn dịch.

Trẻ em < 3 tháng tuổi

Ngược lại, trẻ sốt cao < 3 tháng tuổi vẫn tiếp tục có nguy cơ nhiễm khuẩn nặng (SBI) cao hơn so với trẻ lớn hơn, khoảng 8 đến 10%. Trong quá khứ, nhiễm trùng nặng ở trẻ nhỏ 3 mo tuổi thường gây ra bởi Liên cầu tan máu nhóm B, S. pneumoniaeH. influenzae type b. Tuy nhiên, dự phòng bằng hóa chất trong quá trình chuyển dạ Chỉ định cho mẹ điều trị dự phòng liên cầu nhóm B Nhiễm khuẩn sơ sinh là tình trạng bị các tác nhân vi sinh vật xâm lần, thường là do vi khuẩn xảy ra trong giai đoạn sơ sinh. Dấu hiệu nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh rất đa dạng và không đặc hiệu... đọc thêm ở phụ nữ có thai nhiễm liên cầu khuẩn tan huyết beta nhóm B đã làm giảm sự khởi phát sớm (nhiễm trùng xảy ra khi <7 ngày="" tuổi)="" bệnh="" liên="" cầu="" nhóm="" b=""> 80%. Ngoài ra, việc chủng ngừa liên hợp thường quy đã làm giảm khả năng xâm chiếm quần thể ở các anh chị em lớn tuổi được chủng ngừa S. pneumoniaeH. influenzae type b, do đó tỷ lệ SBI do những sinh vật đó gây ra cũng giảm (miễn dịch cộng đồng).

Đáng chú ý là, khởi phát muộn (nhiễm trùng > 7 ngày tuổi) nhiễm khuẩn streptococcus nhóm B không bị ảnh hưởng bởi dự phòng trong thời gian chuyển dạ, và các bệnh do vi khuẩn nghiêm trọng khác như UTI Nhiễm khuẩn tiết niệu (UTI) ở trẻ em Nhiễm khuẩn tiết niệu (UTI) được xác định bởi ≥ 5 × 104 các khuẩn lạc/mL trong mẫu nước tiểu đã được thông báo hoặc, ở trẻ lớn hơn, bằng mẫu lặp lại với ≥ 105 khuẩn lạc/mL... đọc thêm (thường do Escherichia coli) và các trường hợp thỉnh thoảng do vãng khuẩn huyết SalmonellaStaphylococcus aureus tiếp tục là nguyên nhân quan trọng của sốt mà không có nguồn rõ ràng về khám thực thể ở trẻ < 3 tháng.

Triệu chứng và Dấu hiệu

Triệu chứng chính của vãng khuẩn huyết ẩn là sốt-nhiệt độ 39°C ( 38°C cho trẻ < 3 tháng). Theo định nghĩa, trẻ em có bệnh có ổ rõ ràng (ví dụ như ho, khó thở, và rale phổi cho thấy bệnh viêm phổi, da ban đỏ gợi ý viêm mo tế bào hoặc viêm khớp nhiễm khuẩn) được loại trừ (nghĩa là vì bệnh của đấy không phải ẩn). Biểu hiện nhiễm độc (ví dụ như yếu ớt và thờ ơ, lơ mơ, dấu hiệu tưới máu kém, tím táu, giảm thông khí hoặc tăng thông khí phổi) gợi ý nhiễm khuẩn nhiễm khuẩn huyết hoặc sốc nhiễm khuẩn;vãng khuẩn ở trẻ em đó cũng không được phân loại là ẩn hoặc sốt hoặc không rõ căn nguyên. Tuy nhiên, nhiễm trùng giai đoạn sớm có thể khó phân biệt được với nhiễm khuẩn huyết bí.

Chẩn đoán

  • Nuôi cấy máu

  • Cấy nước tiểu và xét nghiệm nước tiểu

  • Công thức máu và công thức bạch cầu

  • Đôi khi các xét nghiệm khác tùy thuộc vào tuổi tác và hoàn cảnh lâm sàng

Chẩn đoán vãng khuẩn huyết đòi hỏi sự nuôi cấy máu; lý tưởng là hai mẫu được lấy từ các vị trí riêng biệt, giúp giảm thiểu các vấn đề dương tính giả do các chất gây nhiễm bẩn da và kết quả nên được thực hiện trong vòng 24 giờ.

Các khuyến cáo để thử nghiệm và lựa chọn các xét nghiệm khác nhau theo tuổi, nhiệt độ, và biểu hiện lâm sàng; mục tiêu là để giảm thiểu xét nghiệm mà không làm sót nhiễm trùng nặng. Trẻ em có ổ nhiễm trùng cũ hoặc khám thực thể được đánh giá dựa trên những kết quả đó.

Nếu có, các xét nghiệm chẩn đoán nhanh cho enterovirus Chẩn đoán Nhóm Enterovirus, cùng với nhóm rhinovirus (xem Cảm lạnh thông thường) và parechovirus ở người, là một chi của picornavirus (pico, hoặc vi rút RNA nhỏ). Tất cả các enterovirus đều có... đọc thêm , virus hợp bào hô hấp Chẩn đoán Virus hợp bào hô hấp và nhiễm human metapneumovirus gây nhiễm trùng đường hô hấp dưới theo mùa, đặc biệt ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ. Bệnh có thể không có triệu chứng, nhẹ hoặc nặng, bao gồm viêm... đọc thêm (RSV), và virus cúm Chẩn đoán Cúm là một bệnh nhiễm trùng hô hấp do vi rút gây sốt, sổ mũi, ho, đau đầu và mệt mỏi. Tỷ lệ tử vong có thể xảy ra trong các đợt dịch bộc phát theo mùa, đặc biệt là ở những bệnh nhân có nguy... đọc thêm rất hữu ích trong việc đánh giá trẻ nhỏ bị sốt mà không có nguồn rõ ràng vì trẻ nhỏ có kết quả xét nghiệm dương tính với những virut này có khả năng cao bị sốt do virut đó và cần ít hoặc không cần thêm các xét nghiệm nhiễm trùng nặng khác. Ngoài ra còn có các xét nghiệm nhanh cho các loại vi rút khác, nhưng chưa được nghiên cứu đầy đủ để chứng minh việc sử dụng kết quả của các xét nghiệm đó để thay đổi xét nghiệm về SBI.

Ở trẻ sơ sinh có nhiễm khuẩn nặng, công thức máu thường biểu hiện lượng bạch cầu cao; tuy nhiên, chỉ có khoảng 10% trẻ em có bạch cầu > 15.000/mcL (> 15 × 109/L) là vãng khuẩn huyết, vì vậy độ đặc hiệu thấp. Để đánh giá phản ứng viêm một số bác sỹ lâm sàng sử dụng các chất phản ứng viêm cấp (ví dụ, tốc tộ máu nắng, CRP có hoặc không có procalcitonin); họ cho rằng nồng độ procalcitonin tăng đặc hiệu hơn đối với bệnh nặng. Ở trẻ em < 3 tháng, số lượng bạch cầu đũa > 1500/mcL (> 1.5 × 109/L) và số lượng bạch cầu thấp (< 5000/mcL [5 × 109/L]) hoặc cao (> 15.000/mcL [> 15 × 109/L]) có thể cho thấy vãng khuẩn huyết.

Trẻ em từ 3 đến 36 tháng tuổi

Điều quan trọng cần lưu ý là bất kỳ trẻ sốt nào, bất kể tiền sử chủng ngừa, có biểu hiện nặng hoặc nhiễm độc cần phải đánh giá lâm sàng và các xét nghiệm đầy đủ (Công thức máu, nuôi cấy máu, nước tiểu, chọc CSF, và trong hầu hết các trường hợp, nhập viện với điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm). Trẻ sốt chưa được miễn dịch, miễn dịch kém và bị suy giảm miễn dịch ở những lứa tuổi này nhạy cảm với bệnh nhiễm trùng năng so với các trẻ đồng trang lứa và cũng thường yêu cầu đánh giá lâm sàng và xét nghiệm đầy đủ cho nhiễm trùng nặng và thuốc kháng sinh theo kinh nghiệm. Trẻ em bị khó thở hoặc oxy bão hòa thấp cũng nên có X-quang ngực.

Ở trẻ 3 đến 36 tháng tuổi sốt đã được chủng ngừa trước đó từ biểu hện lâm sàng tốt (không biểu hiện nhiễm đọc), nguy cơ vãng khuẩn máu hiện nay ở mức thấp hoặc thậm chí thấp hơn tỷ lệ nuôi cấy máu dương tính giả do nhiễm bẩn từ da, dẫn đến nhiều chuyên gia bỏ qua cấy máu ở những trẻ enafy Tuy nhiên, xét nghiệm nước tiểu với kiểm tra vi thể và nuôi cấy nước tiểu thường được khuyến cáo nhưng không phải là xét nghiệm bổ sung (thí dụ, công thức máu, X-quang ngực). Tuy nhiên, xét nghiệm nước tiểu với kiểm tra vi thể và nuôi cấy nước tiểu thường được khuyến cáo nhưng không phải là xét nghiệm bổ sung (thí dụ, công thức máu, X-quang ngực). Mặc dù đa số trẻ em bị nhiễm virut, nhưng một số ít trẻ em xuất hiện sẽ có một bệnh nhiễm trùng nặng sớm vì thế, nên người chăm sóc nên được khuyên để theo dõi các triệu chứng của trẻ, cho thuốc hạ sốt và theo dõi với bác sĩ lâm sàng (bằng cách viếng thăm hoặc gọi điện thoại tùy thuộc vào hoàn cảnh và độ tin cậy của người chăm sóc) trong 24 đến 48 giờ. Trẻ em có tình trạng xấu đi hoặc vẫn sốt sẽ phải làm xét nghiệm (ví dụ, công thức máu, cấy máu, có thể là chụp X-quang ngực hoặc chọc CSF).

Trẻ em < 3 tháng tuổi

Trẻ nhỏ có biểu hiện nhiễm độc hoặc bệnh nặng cần được thăm khám lâm sàng ngay lâp tức và lấy mấu mẫu máu, nước tiểu, và dịch tủy sống làm nuôi cấy và nhập viện để điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm. Không giống ở những trẻ lớn, ở những trẻ < 3 tháng tuổi, biểu hiện lâm sàng không độc hại thường không phải lý do để trì hoãn các xét nghiệm thường quy.

Các lưu đồ đã được phát triển để giúp định hướng đánh giá trẻ sơ sinh trong nhóm tuổi này (ví dụ, xem Hình: Đánh giá và quản lý trẻ sốt cao < 3 tháng tuổi Đánh giá và quản lý trẻ sốt cao < 3 tháng tuổi Đánh giá và quản lý trẻ sốt cao <span class='symbol' ><</span> 3 tháng tuổi ). Khi sử dụng lưu đồ, nhiều chuyên gia cho rằng < 30 ngày tuổi bản thân đã là một tiêu chí có nguy cơ cao (và do đó thường xuyên nhận biết chúng và làm xét nghiệm bổ sung), trong khi những người khác thì không và xử lý tất cả trẻ < 90 ngày cùng một tiêu chuẩn. Lưu đồ này là nhạy cảm đối với bệnh nhiễm trùng nặng nhưng tương đối không đặc hiệu. Do đó, dù tỷ lệ nhiễm trùng nặng tương đối thấp trong quần thể trẻ nhõ sốt, lưu đồ vẫn có giá trị tiên lượng âm tính cao nhưng giá trị dự đoán dương tính thấp xem Đặc điểm của xét nghiệm Đặc điểm của xét nghiệm Kết quả xét nghiệm có thể giúp chẩn đoán ở bệnh nhân có triệu chứng (xét nghiệm chẩn đoán) hoặc xác định bệnh ẩn ở bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc). Nếu các xét nghiệm được chỉ định... đọc thêm ), làm cho nó có hiệu quả hơn nhiều trong việc xác định trẻ em có nguy cơ nhiễm trùng thấp có thể điều trị được hiệu quả (tức là bệnh nhiễm trùng nặng hoặc vãng khuẩn huyết được loại trừ) thay vì xác định trẻ thực sự có nhiễm trùng nặng hay vãng khuẩn huyết.

Đánh giá và quản lý trẻ sốt cao < 3 tháng tuổi

hpf = trường năng lượng cao.

Đánh giá và quản lý trẻ sốt cao 3 tháng tuổi

Điều trị

  • Kháng sinh (theo kinh nghiệm, đối với một số bệnh nhân đang chờ kết quả nuôi cấy, cũng như đối với những bệnh nhân có cấy dương tính)

  • Thuốc hạ sốt vì khó chịu

  • Bù đủ dịch (vì tăng mất dịch với sốt và có thể bị biếng ăn); bù dịch đường uống nếu có thể, không nên bù đường truyền tĩnh mạch.

Trẻ em nhận được kháng sinh trước khi vãng khuẩn huyết được khẳng định bằng cách nuôi cấy máu dường như ít tiến triển nhiễm trùng tại chỗ, nhưng dữ liệu không nhất quán. Tuy nhiên, do tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết nói chung thấp, nhiều trẻ sẽ được điều trị không cần thiết nếu tất cả những trẻ được xét nghiệm được điều trị theo kinh nghiệm. Như trên, quản lý khác nhau theo tuổi tác và các yếu tố lâm sàng khác.

Bất kể tuổi tác, tất cả trẻ em được kiểm tra lại trong vòng 24 đến 48 giờ. Những người bị sốt dai dẳng hoặc có máu hoặc nước tiểu dương tính chưa điều trị đã có nhiều lần cấu máu hơn và được nhập viện để đánh giá tình trạng nhiễm trùng huyết và điều trị kháng sinh đường tiêm. Nếu dấu hiệu ổ nhiễm trùng mới được tìm thấy khi tái khám, đánh giá và điều trị được dựa vào những xét nghiệm.

Trẻ em từ 3 đến 36 tháng tuổi

Thuốc hạ sốt trong liều lượng dựa trên trọng lượng được đưa ra. Thuốc kháng sinh không được cho trừ khi cấy máu dương tính. Nếu xét nghiệm nước tiểu và cấy nước tiểu gợi ý nhiễm trùng đường tiểu, trẻ em biểu hiện tốt có thể được uống kháng sinh cho nhiễm khuẩn đường tiểu trẻ em Điều trị Nhiễm khuẩn tiết niệu (UTI) được xác định bởi ≥ 5 × 104 các khuẩn lạc/mL trong mẫu nước tiểu đã được thông báo hoặc, ở trẻ lớn hơn, bằng mẫu lặp lại với ≥ 105 khuẩn lạc/mL... đọc thêm như bệnh nhân ngoại trú; trường hợp khác (ví dụ như những người bị bệnh nặng hơn; những trẻ không được theo dõi đầy đủ) có thể cần nhập viện để dùng kháng sinh đường tiêm.

Trẻ em < 3 tháng tuổi

Một hệ thống quản lý chung trước khi kết quả cấy máu có xem Hình: Đánh giá và quản lý trẻ sốt cao < 3 tháng tuổi Đánh giá và quản lý trẻ sốt cao < 3 tháng tuổi Đánh giá và quản lý trẻ sốt cao <span class='symbol' ><</span> 3 tháng tuổi ) giảm thiểu việc sử dụng kháng sinh ở hầu hết trẻ sơ sinh không có khả năng bị nhiễm khuẩn nặng và cung cấp kháng sinh ngay cho những bệnh nhân cần đến. Nếu xét nghiệm nước tiểu và cấy nước tiểu gợi ý nhiễm trùng đường tiểu, trẻ em biểu hiện tốt có thể được uống kháng sinh cho nhiễm khuẩn đường tiểu trẻ em Điều trị Nhiễm khuẩn tiết niệu (UTI) được xác định bởi ≥ 5 × 104 các khuẩn lạc/mL trong mẫu nước tiểu đã được thông báo hoặc, ở trẻ lớn hơn, bằng mẫu lặp lại với ≥ 105 khuẩn lạc/mL... đọc thêm như bệnh nhân ngoại trú; trường hợp khác (ví dụ như những người bị bệnh nặng hơn) có thể cần nhập viện để dùng kháng sinh đường tiêm.

Lưu ý, một số cơ quan có thẩm quyền muốn nhập viện với tất cả các trẻ sơ sinh sốt < 1 tháng tuổi, đánh giá đầy đủ các mẫu máu, nước tiểu, và CSF và cho kháng sinh đường tiêm (ví dụ ceftriaxone) chờ kết quả nuôi cấy vì trẻ sốt < 1 tháng tuổi là nhóm tuổi có tỷ lệ mắc bệnh nhiễm trùng nặng cao nhất.

Những điểm chính

  • Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ sốt nhẹ < 36 tháng tuổi, đã được chủng ngừa phù hợp với vắc xin Hib và vắc xin H. influenzae type B và vắc xin liên hợp phế cầu, và những người trông khỏe mạnh và không có các ổ nhiễm trùng rõ, sẽ không có nguy cơ vãng khuẩn huyết ẩn hoặc nhiễm khuẩn nặng (nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não).

  • Sử dụng phương pháp nuôi cấy máu (2 mẫu từ 2 vị trí riêng biệt) để chẩn đoán nhiễm trùng huyết trầm trọng ở trẻ sốt.

  • Tất cả trẻ sốt hạ sốt < 36 tháng tuổi cần được đánh giá nhiễm trùng đường tiểu (UTI) bằng tổng phân tích nước tiểu và cấy nước tiểu vì nhiễm khuẩn tiết niệu (UTI) hiện là nguyên nhân thường gặp nhất gây ra bệnh nhiễm khuẩn nặng có sốt.

  • Trẻ có biểu hiện nhiễm độc (và có lẽ tất cả trẻ sốt ở độ tuổi < 1 tháng tuổi) cũng cần có nuôi cấy máu và dịch tủy sống và nhập viện để điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm.

  • Ở trẻ em từ 3 đến 36 tháng có nhiệt độ ≥ 39°C và đã được chủng ngừa thích hợp, việc kiểm tra ngoài nước tiểu không được chỉ định cho những bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng tốt; những bệnh nhân khác cần được chỉ định dựa trên kết quả đánh giá lâm sàng và các tình huống khác (ví dụ, xét nghiệm virut cúm, virus hợp vào hô hấp và enterovirus trong những mùa thích hợp).

  • Ở trẻ nhũ nhi < 3 tháng với nhiệt độ ≥ 38°C, biểu hiện lâm sàng tốt không loại trừ hoàn toàn một nhiễm khuẩn nặng, do đó xét nghiệm, gồm xét nghiệm nước tiểu, công thức máu, cấy máu và nước tiểu, và nếu có (tùy theo dịch tễ và mùa dịch), có thể là xét nghiệm test nhanh virus cúm, virus hợp bào hô hấp (RSV), và enterovirus, được chỉ định cho tất cả ở độ tuổi này.

  • Trẻ không có biểu hiện nhiễm độc, nguy cơ thấp cần được theo dõi chặt chẽ nếu không được điều trị bằng kháng sinh.

TRÊN CÙNG