Ung thư đại trực tràng

(Ung thư đại tràng; ung thư trực tràng)

TheoAnthony Villano, MD, Fox Chase Cancer Center
Xem xét bởiMinhhuyen Nguyen, MD, Fox Chase Cancer Center, Temple University
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 5 2025 | đã sửa đổi Thg 7 2025
v29279674_vi

Ung thư đại trực tràng là bệnh rất phổ biến. Các triệu chứng bao gồm máu trong phân và thay đổi thói quen đại tiện. Chẩn đoán bằng nội soi đại tràng. Điều trị gồm phẫu thuật cắt bỏ và hóa trị nếu có di căn hạch. Các biện pháp hành vi và có thể dùng aspirin liều thấp có thể làm giảm nguy cơ.

Ung thư đại-trực tràng là loại ung thư được chẩn đoán phổ biến thứ tư ở Hoa Kỳ. Tỷ lệ mắc bệnh tăng mạnh trong khoảng từ 40 đến 50 tuổi. Trong 2024, ước tính có 106.590 ca ung thư đại tràng mới và 46.220 ca ung thư trực tràng mới được chẩn đoán (1). Số ca tử vong do ung thư đại trực tràng đã giảm đều đặn trong vài thập kỷ qua và được cho là kết quả của việc cải thiện sàng lọc và chẩn đoán ở giai đoạn đầu của bệnh.

Nhìn chung, hơn một nửa số trường hợp xảy ra ở trực tràng và đại tràng xích ma, và 95% là ung thư biểu mô tuyến. Ung thư đại trực tràng ở nam giới hơi phổ biến hơn so với nữ giới. Ung thư đồng bộ (hơn 1) xảy ra ở khoảng 5% số bệnh nhân (2).

Tài liệu tham khảo

  1. 1. Siegel RL, Giaquinto AN, Jemal A. Cancer statistics, 2024 [published correction appears in CA Cancer J Clin. Tháng 3-tháng 4 năm 2024;74(2):203. doi: 10.3322/caac.21830]. CA Cancer J Clin. 2024;74(1):12-49. doi:10.3322/caac.21820

  2. 2. Thiels CA, Naik ND, Bergquist JR, et al. Survival following synchronous colon cancer resection. J Surg Oncol. 114(1):80-85, 2016. doi: 10.1002/jso.24258

Căn nguyên của ung thư đại trực tràng

Ung thư đại trực tràng (CRC) thường xảy ra dưới dạng biến đổi bên trong polyp tuyến. Khoảng 80% số trường hợp là lẻ tẻ và 20% số trường hợp có yếu tố di truyền. Nhiều hội chứng di truyền có xu hướng dẫn đến CRC:

Các tình trạng bệnh lý có nguy cơ bao gồm các rối loạn viêm mạn tính (ví dụ: viêm đại tràng thể loét, viêm đại tràng Crohn); nguy cơ bị ung thư tăng lên theo thời gian bị những rối loạn này.

Bệnh nhân trong quần thể có tỷ lệ mắc ung thư đại trực tàng cao ăn chế độ ăn ít chất xơ, nhiều đạm động vật, chất béo và carbohydrate tinh chế. Các chất gây ung thư có thể có trong chế độ ăn uống đã ăn nhưng có nhiều khả năng được tạo ra do tác động của vi khuẩn đối với các chất trong chế độ ăn uống hoặc các chất bài tiết từ mật hoặc từ ruột. Cơ chế chính xác chưa được biết.

Ung thư đại trực tràng lan rộng trực tiếp qua thành ruột, di căn xa theo đường máu, di căn hạch lympho khu vực và lan ra quanh dây thần kinh.

Các triệu chứng và dấu hiệu của ung thư đại trực tràng

Ung thư biểu mô tuyến đại trực tràng thường phát triển chậm và sau một thời gian dài trôi qua mới có biểu hiện triệu chứng khi kích thước u đủ lớn. Các triệu chứng phụ thuộc vào vị trí tổn thương, loại, mức độ và các biến chứng.

Đại tràng phải có đường kính lớn, thành mỏng và chứa dịch lỏng; do đó, triệu chứng tắc ruột thường biểu hiện muộn. Chảy máu thường mơ hồ. Mệt mỏi và suy nhược do thiếu máu nặng có thể là triệu chứng duy nhất và các khối u thường không có triệu chứng và chỉ được phát hiện khi nội soi đại tràng hoặc hình ảnh cắt ngang được thực hiện vì một lý do khác. Các khối u đôi khi phát triển đủ lớn để có thể sờ thấy qua thành bụng trước khi các triệu chứng khác xuất hiện.

Đại tràng trái có lòng nhỏ hơn, phân ở dạng bán rắn, và ung thư có xu hướng gây tắc nghẽn sớm hơn ở đại tràng phải. Tắc nghẽn bán phần kèm theo đau bụng quặn hoặc tắc hoàn toàn có thể là biểu hiện ban đầu. Phân có thể có vệt máu hoặc lẫn máu. Một số bệnh nhân có các triệu chứng thủng, thường hóa thành (đau khu trú và ấn đau), hoặc hiếm khi bị viêm phúc mạc lan tỏa.

Trong ung thư trực tràng, triệu chứng ban đầu thường gặp nhất là đại tiện ra máu. Bất cứ khi nào có chảy máu trực tràng, ngay cả với bệnh trĩ rõ ràng hoặc bệnh túi thừa đã biết, phải loại trừ trường hợp ung thư cùng tồn tại. Có thể có cảm giác buốt mót hoặc cảm giác đại tiện không hết phân. Đau phổ biến khi liên quan đến quanh hậu môn.

Một số bệnh nhân lần đầu tiên có các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh di căn (ví dụ: gan to, cổ trướng, phì đại hạch thượng đòn).

Chẩn đoán ung thư đại trực tràng

  • Sinh thiết qua nội soi đại tràng

  • CT để đánh giá mức độ phát triển và lan rộng của khối u

  • Xét nghiệm di truyền

Những bệnh nhân có các triệu chứng gợi ý ung thư đại tràng hoặc có xét nghiệm sàng lọc dương tính cần xét nghiệm chẩn đoán để xác nhận xem họ có bị ung thư hay không. Hướng dẫn hiện tại khuyến nghị tất cả mọi người nên sàng lọc, bất kể yếu tố nguy cơ.

Những bệnh nhân có xét nghiệm máu ẩn trong phần dương tính hoặc xét nghiệm DNA trong phân dương tính cần phải nội soi đại tràng, cũng như những bệnh nhân có tổn thương được phát hiện khi soi đại tràng sigma hoặc nghiên cứu hình ảnh. Tất cả các tổn thương cần được cắt bỏ hoàn toàn để kiểm tra mô học. Nếu tổn thương không cố định hoặc không thể cắt bỏ khi nội soi đại tràng, nên cân nhắc phẫu thuật cắt bỏ để loại trừ ung thư ẩn.

Chụp X-quang có thụt bari, đặc biệt là chụp có thuốc cản quang kép, có thể phát hiện nhiều tổn thương nhưng kém chính xác hơn so với nội soi đại tràng và không được chấp nhận để theo dõi xét nghiệm máu ẩn trong phân dương tính hoặc xét nghiệm DNA dương tính.

Sau khi chẩn đoán ung thư, bệnh nhân cần được chụp CT ngực, bụng và xương chậu và làm các xét nghiệm thường quy để tìm kiếm bệnh di căn. Nên giới thiệu đến bác sĩ chuyên khoa điều trị ung thư đại trực tràng (ví dụ: bác sĩ phẫu thuật đại trực tràng, bác sĩ phẫu thuật ung thư).

Dựa trên một nghiên cứu dân số Hoa Kỳ về ung thư đại tràng từ giai đoạn I đến giai đoạn III, nồng độ kháng nguyên phôi thai ung thư (CEA) trong huyết thanh tăng cao xuất hiện ở 34% số bệnh nhân ung thư đại tràng (1). Nồng độ CEA được lấy thường xuyên như một phần của đánh giá ban đầu về CRC, nhưng xét nghiệm này không nhạy cũng không đặc hiệu và do đó không được khuyến nghị cho mục đích sàng lọc. Nồng độ CEA được theo dõi thường xuyên sau khi điều trị. Nếu nồng độ CEA cao trước phẫu thuật và thấp sau khi cắt bỏ khối u đại tràng, việc theo dõi nồng độ có thể giúp phát hiện tái phát sớm hơn (2).

Ung thư đại tràng được cắt bỏ trong quá trình phẫu thuật thường được xét nghiệm các đột biến gen gây ra hội chứng Lynch (3). Ngoài ra, những người có người thân mắc ung thư đại tràng, ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung khi còn trẻ hoặc có nhiều người thân mắc các loại ung thư này nên được xét nghiệm hội chứng Lynch. Những bệnh nhân được xác nhận mắc hội chứng Lynch hoặc có tiền sử gia đình mắc hội chứng Lynch sẽ được giới thiệu để tư vấn di truyền.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

  1. 1. Becerra AZ, Probst CP, Tejani MA, et al. Evaluating the Prognostic Role of Elevated Preoperative Carcinoembryonic Antigen Levels in Colon Cancer Patients: Results from the National Cancer Database. Ann Surg Oncol. 2016;23(5):1554-1561. doi:10.1245/s10434-015-5014-1

  2. 2. Shinkins B, Primrose JN, Pugh SA, et al. Serum carcinoembryonic antigen trends for diagnosing colorectal cancer recurrence in the FACS randomized clinical trial [published correction appears in Br J Surg. Tháng 5 năm 2019;106(6):728. doi: 10.1002/bjs.11175.]. Br J Surg. 2018;105(6):658-662. doi:10.1002/bjs.10819

  3. 3. Giardiello FM, Allen JI, Axilbund JE, et al. Guidelines on genetic evaluation and management of Lynch syndrome: a consensus statement by the US Multi-society Task Force on colorectal cancer. Am J Gastroenterol. 2014;109(8):1159-1179. doi:10.1038/ajg.2014.186

Điều trị ung thư đại trực tràng

  • Phẫu thuật cắt bỏ, đôi khi kết hợp với hóa trị, xạ trị hoặc cả hai

Phẫu thuật

Phẫu thuật cắt bỏ là phương pháp chính để điều trị CRC với mục đích chữa khỏi bệnh. Việc cắt bỏ bao gồm việc loại bỏ phần giải phẫu của ruột già chứa khối u cùng với hệ thống dẫn lưu bạch huyết khu vực của khối u đó. Nói chung, dự kiến sẽ có bờ rộng 5 cm, nhưng bờ âm tính ở bất kỳ khoảng cách nào cũng có thể chấp nhận được. Việc cắt bỏ thường được thực hiện bằng cách nối lại các đoạn ruột để khôi phục tính liên tục của đường ruột (nối thông).

Đối với ung thư trực tràng, phẫu thuật cắt bỏ bảo tồn cơ thắt (cắt bỏ phía trước thấp) có thể được thực hiện ở những bệnh nhân có khối u thấp gần nhưng không liên quan đến phức hợp cơ thắt hậu môn mà không có nguy cơ tái phát tại chỗ đáng kể hoặc giảm thời gian sống thêm lâu dài. Các thủ thuật bảo tồn cơ vòng đòi hỏi phải có nối thông thấp, thường kéo theo các vấn đề về chức năng sau phẫu thuật (ví dụ: rò rỉ phân, không tự chủ). Nếu tái phát cục bộ hoặc chức năng ruột kém dung nạp sau thủ thuật bảo tồn cơ thắt, khuyến nghị phẫu thuật cắt bỏ vùng bụng đáy chậu (abdominoperineal resection, APR) kèm theo hậu môn nhân tạo vĩnh viễn thường được khuyến khích (1).

Với di căn gan, phẫu thuật cắt bỏ có thể được sử dụng tùy thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm

  • Số lượng tổn thương di căn ở gan

  • Lượng nhu mô gan bị thương tổn có bệnh di căn

  • Khả năng cắt bỏ các phân thùy bị thương tổn của gan

  • Biểu hiện đồng thời với khác thì

  • Sinh học khối u (có đột biến KRAS, NRAS hoặc BRAF )

Bệnh nhân di căn gan cần phải được một nhóm đa ngành bao gồm bác sĩ ung bướu nội khoa, bác sĩ ung bướu bức xạ, bác sĩ X quang can thiệp và bác sĩ phẫu thuật gan mật đánh giá các phương án điều trị. Một nhóm đa ngành có vai trò rất quan trọng đối với quá trình ra quyết định điều trị.

Điều trị bổ trợ

Trong ung thư đại tràng, hóa trị sau phẫu thuật được chỉ định cho bệnh nhân mắc bệnh giai đoạn III (hạch dương tính) hoặc bệnh nhân mắc bệnh giai đoạn II có nguy cơ cao (hạch âm tính nhưng quan sát thấy các đặc điểm nguy cơ cao trên bệnh học như xâm lấn mạch bạch huyết) (xem bảng Phân giai đoạn ung thư đại trực tràng).

Đối với ung thư trực tràng, các quyết định liên quan đến liệu pháp bổ trợ ngày càng trở nên phức tạp hơn trong 5 năm qua do một số nghiên cứu đưa ra ý tưởng sử dụng liệu pháp bổ trợ trước mổ toàn phần (thực hiện toàn bộ hóa trị và xạ trị trước khi phẫu thuật) (2–5).

Nhìn chung, những bệnh nhân có bệnh ở giai đoạn tiến triển tại chỗ (T3 hoặc T4) hoặc nghi ngờ có bệnh ở hạch sẽ được điều trị bằng cả hóa trị và xạ trị trước khi phẫu thuật cắt bỏ.

Theo sát

Sau phẫu thuật cắt bỏ ung thư đại-trực tràng để chữa khỏi, nên nội soi đại tràng theo dõi sau phẫu thuật 1 năm hoặc sau khi nội soi đại tràng trước phẫu thuật đã sạch (6). Nội soi đại tràng theo dõi lần thứ hai nên thực hiện sau 3 năm nếu nội soi đại tràng theo dõi ở thời điểm 1 năm không phát hiện khối u hoặc polyp. Sau đó, nội soi đại tràng theo dõi nên được thực hiện 5 năm một lần. Nếu nội soi đại tràng trước phẫu thuật không đầy đủ do ung thư cản trở, cần phải hoàn tất việc nội soi đại tràng sau phẫu thuật từ 3 tháng đến 6 tháng để phát hiện bất kỳ tình trạng ung thư đồng thời nào và để phát hiện và cắt bỏ bất kỳ polyp tiền ung thư nào (6).

Việc sàng lọc bổ sung để phát hiện tái phát nên bao gồm tiền sử, khám thực thể và nồng độ kháng nguyên phôi thai ung thư trong huyết thanh 3 tháng một lần trong 2 năm và sau đó 6 tháng một lần trong tổng số 5 năm (5).

Các nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh (CT hoặc MRI) được thực hiện 6 tháng đến 12 tháng một lần trong 5 năm đối với ung thư đại tràng giai đoạn II đến giai đoạn III. Ung thư đại-trực tràng giai đoạn I chỉ cần nội soi đại tràng để theo dõi (tức là không cần xét nghiệm hoặc chụp chiếu) (5).

Điều trị giảm nhẹ

Khi phẫu thuật triệt căn không thể thực hiện được hoặc bệnh nhân có nguy cơ phẫu thuật không thể chấp nhận được, phẫu thuật giảm nhẹ hạn chế (ví dụ, để làm giảm tắc nghẽn hoặc cắt một khu vực bị thủng) có thể được chỉ định; thời gian sống thêm trung vị là 7 tháng. Một số khối u gây tắc nghẽn có thể phẫu thuật cắt khối u bằng điện đông hoặc để khai thông bằng stent. Hóa trị liệu có thể làm nhỏ các khối u và kéo dài thời gian sống thêm trong vài tháng.

Các thuốc hóa trị, được sử dụng đơn lẻ hoặc phối hợp, bao gồm capecitabine (tiền chất của 5-fluorouracil), irinotecan và oxaliplatin. Các kháng thể đơn dòng như bevacizumab, cetuximab và panitumumab cũng được sử dụng có chọn lọc với một số hiệu quả. Không có phác đồ điều trị nào rõ ràng là hiệu quả hơn trong việc kéo dài cuộc sống ở bệnh nhân bị CRC di căn, mặc dù một số phác đồ điều trị có thể trì hoãn sự tiến triển của bệnh. Hóa trị cho bệnh ung thư đại tràng tiến triển cần phải do bác sĩ ung bướu nội khoa có kinh nghiệm quản lý, người này có khả năng tiếp cận các loại thuốc nghiên cứu hoặc thử nghiệm lâm sàng.

Khi di căn chỉ giới hạn ở gan nhưng không thể phẫu thuật cắt bỏ, truyền động mạch gan bằng floxuridine hoặc vi cầu phóng xạ, được tiêm ngắt quãng tại khoa X quang hoặc tiêm liên tục qua bơm dưới da cấy ghép hoặc bơm ngoài đeo trên đai, có thể mang lại nhiều lợi ích hơn hóa trị toàn thân; tuy nhiên, những liệu pháp này mang lại lợi ích không chắc chắn và các thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành để hiểu rõ lợi ích và tác hại tương đối của chúng. Liệu pháp xạ trị lập thể hoặc triệt đốt bằng nhiệt có sử dụng phương pháp điều trị bằng tần số vô tuyến hoặc vi sóng cũng có thể được xem xét để làm giảm nhẹ.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Bujko K, Rutkowski A, Chang GJ, et al. Is the 1-cm rule of distal bowel resection margin in rectal cancer based on clinical evidence? A systematic review. Ann Surg Oncol.19(3):801–808, 2012. doi: 10.1245/s10434-011-2035-2

  2. 2. Garcia-Aguilar J, Patil S, Gollub MJ, et al. Organ preservation in patients with rectal adenocarcinoma treated with total neoadjuvant therapy. J Clin Oncol. 40(23):2546–2556, 2022. doi: 10.1200/JCO.22.00032

  3. 3. Bahadoer RR, Dijkstra EA, van Etten B, et al. Short-course radiotherapy followed by chemotherapy before total mesorectal excision (TME) versus preoperative chemoradiotherapy, TME, and optional adjuvant chemotherapy in locally advanced rectal cancer (RAPIDO): A randomised, open-label, phase 3 trial. Lancet Oncol. 22(1):29–42, 2021. doi: 10.1016/S1470-2045(20)30555-6. Correction to Lancet Oncol 2021; 22:29-42. Lancet Oncol. 22(2):e42, 2021.

  4. 4. Conroy T, Bosset JF, Etienne PL, et al. Neoadjuvant chemotherapy with FOLFIRINOX and preoperative chemoradiotherapy for patients with locally advanced rectal cancer (UNICANCER-PRODIGE 23): A multicentre, randomised, open-label, phase 3 trial. Lancet Oncol. 22(5):702–715, 2021. doi: 10.1016/S1470-2045(21)00079-6

  5. 5. Benson AB, Venook AP, Adam M, et al. Colon Cancer, Version 3,2024, NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology. J Natl Compr Canc Netw. Tháng 6 năm 2024;22(2 D):e240029. doi: 10.6004/jnccn.2024.0029

  6. 6. Kahi CJ, Boland R, Dominitz JA, et al. Colonoscopy surveillance after colorectal cancer resection: Recommendations of the US multi-society task force on colorectal cancer. Gastroenterology. 150:758–768, 2016. doi: 10.1053/j.gastro.2016.01.001

Tiên lượng về ung thư đại trực tràng

Tiên lượng phụ thuộc rất nhiều vào giai đoạn (xem bảng Phân giai đoạn ung thư đại trực tràng).

Tỷ lệ có thời gian sống thêm 5 năm đối với bệnh ung thư đại-trực tràng khu trú là khoảng 90%. Đối với bệnh khu trú (liên quan đến hạch bạch huyết), tỷ lệ của thời gian sống thêm 5 năm là 73% đến 74%. Trong trường hợp di căn xa, tỷ lệ của thời gian sống thêm là 13% đến 18% (1).

Bảng

Tài liệu tham khảo về tiên lượng bệnh

  1. 1. American Cancer Society. Cancer Survival Rates for Colorectal Cancer. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2025.

Phòng ngừa ung thư đại trực tràng

  • Sửa đổi các yếu tố môi trường

  • Đôi khi dùng aspirin liều thấp

Các yếu tố nguy cơ phát sinh CRC có thể thay đổi được bao gồm (1):

  • Không hoạt động thể chất

  • Béo phì

  • Tiếp xúc với thuốc lá

  • Ăn quá nhiều thịt đỏ và thịt chế biến sẵn

  • Chế độ ăn ít chất xơ

  • Lạm dụng rượu

Lực lượng đặc nhiệm dịch vụ phòng ngừa Hoa Kỳ (USPSTF) cũng khuyến nghị sử dụng aspirin liều thấp làm một biện pháp phòng ngừa chính đối với bệnh tim mạch và CRC ở người lớn có nguy cơ mắc CRC trung bình và đáp ứng tất cả các điều kiện sau: (2):

  • Tuổi từ 50 tuổi đến 59 tuổi

  • ≥ 10% nguy cơ mắc bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch trong 10 năm

  • Không tăng nguy cơ chảy máu

  • Tuổi thọ ≥ 10 năm

  • Sẵn sàng dùng aspirin liều thấp hàng ngày trong ≥ 10 năm

Có nên sử dụng aspirin liều thấp cho người lớn đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn tương tự ở độ tuổi lớn hơn (60 tuổi đến 69 tuổi) hay không nên được xác định bằng cách đưa ra quyết định chung.

Tài liệu tham khảo về phòng ngừa

  1. 1. Martínez ME. Primary prevention of colorectal cancer: Lifestyle, nutrition, exercise. Recent Results Cancer Res. 166:177-211, 2005. doi: 10.1007/3-540-26980-0_13

  2. 2. Bibbins-Domingo K; U.S. Preventive Services Task Force. Aspirin Use for the Primary Prevention of Cardiovascular Disease and Colorectal Cancer: U.S. Preventive Services Task Force Recommendation Statement. Ann Intern Med. 164(12):836-845, 2016. doi: 10.7326/M16-0577

Những điểm chính

  • Ung thư đại trực tràng là một trong những loại ung thư phổ biến nhất ở các nước phương Tây, thường phát sinh từ polyp tuyến.

  • Tổn thương bên phải thường biểu hiện bằng chảy máu và thiếu máu; tổn thương bên trái thường biểu hiện với các triệu chứng tắc nghẽn (ví dụ, đau bụng quặn).

  • Nồng độ kháng nguyên ung thư biểu mô phôi (CEA) huyết thanh thường tăng cao nhưng không đủ đặc hiệu để sàng lọc; tuy nhiên, sau khi điều trị, theo dõi nồng độ CEA có thể giúp phát hiện bệnh tái phát.

  • Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ, đôi khi kết hợp với hóa trị và/hoặc xạ trị; kết quả rất khác nhau tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh.

  • Các biện pháp hành vi (ví dụ: hoạt động thể chất, thay đổi chế độ ăn uống, tránh thuốc lá hoặc uống rượu quá mức) và đôi khi dùng aspirin liều thấp có thể làm giảm nguy cơ.

quizzes_lightbulb_red
Test your KnowledgeTake a Quiz!