Những rối lọan trong giấc ngủ là những hành vi không mong muốn xảy ra trong khi đi vào giấc ngủ, trong thời gian ngủ hoặc khi thức dậy. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng hoặc đo đa ký giấc ngủ. Điều trị có thể bao gồm thuốc và liệu pháp tâm lý.
(Tiếp cận bệnh nhân có bệnh lý về nhịp thức ngủ)
Đối với một số rối loạn này, bệnh sử và khám thực thể có thể xác nhận chẩn đoán.
Mộng du
Ngồi, đi bộ hoặc các hành vi phức tạp khác xảy ra trong lúc ngủ, thường với đôi mắt mở mà không bệnh nhân không biết. Mộng du phổ biến nhất trong giai đoạn sau của thời thơ ấu và thanh thiếu niên, xảy ra sau và trong thời kỳ tỉnh táo từ giai đoạn không có chuyển động của mắt nhanh (NREM) giai đoạn N3. Việc thiếu ngủ trước đó và vệ sinh giấc ngủ kém làm tăng khả năng xảy ra các giai đoạn này và nguy cơ cao hơn đối với người thân cùng huyết thống bậc một của bệnh nhân mắc chứng rối loạn này. Các giai đoạn có thể được kích hoạt bởi các yếu tố gây thức trong khi ngủ (ví dụ như caffeine, các chất kích thích, các hành vi làm gián đoạn giấc ngủ) hoặc tăng cường giấc ngủ N3 (ví dụ như thiếu ngủ trước đó, tập thể dục quá mức).
Bệnh nhân có thể lẩm bẩm lặp lại và beenhjnhaan có thể bị thương do những chướng ngại vật hoặc cầu thang. Bệnh nhân không nhớ giấc mơ sau khi tỉnh giấc hoặc sáng hôm sau, thường không nhớ mộng du.
Điều trị là nhằm vào việc loại bỏ các yếu tố gây khởi phát mộng du. Nó cũng bao gồm việc bảo vệ bệnh nhân khỏi bị thương tích-ví dụ như bằng cách sử dụng báo thức để đánh thức bệnh nhân khi họ rời khỏi giường, sử dụng giường thấp, cài đặt cửa báo động loại bỏ các vật sắc nhọn khỏi giường bệnh và chướng ngại vật từ phòng ngủ. Đôi khi, bệnh nhân nên ngủ nệm trên sàn nhà.
Các thuốc benzodiazepin, đặc biệt là clonazepam khi đi ngủ, có thể hữu ích nếu các biện pháp hành vi không hoàn toàn hiệu quả, nhưng những loại thuốc này có tác dụng bất lợi đáng kể.
Nỗi kinh hoàng khi ngủ (ban đêm)
Vào ban đêm, bệnh nhân đột nhiên la hét, bùng phát và dường như sợ hãi và kích thích mạnh mẽ. Điều này có thể dẫn đến mộng du. Bệnh nhân rất khó đánh thức. Giấc ngủ kinh hoàng thường gặp ở trẻ em và xuất hiện khi trẻ em được đánh thức một phần hoặc bị đánh thức từ giấc ngủ giai đoạn N3; do đó, chúng không đại diện cho những cơn ác mộng. Ở người lớn, chứng sợ ngủ có thể liên quan đến các vấn đề tâm lý hoặc rối loạn sử dụng rượu.
Điều trị trọng tâm đối với trẻ em là sự trấn an của phụ huynh. Nếu các hoạt động hàng ngày bị ảnh hưởng (ví dụ: nếu việc học ở trường sa sút), các thuốc benzodiazepin đường uống tác dụng trung bình hoặc kéo dài (ví dụ: clonazepam, diazepam) trước khi đi ngủ có thể hữu ích, nhưng những loại thuốc này có tác dụng bất lợi đáng kể. Người lớn có thể được hưởng lợi từ liệu pháp tâm lý hoặc thuốc.
Ác mộng
Trẻ em thường gặp ác mộng hơn người lớn. Ác mộng xảy ra trong giấc ngủ REM, thường gặp khi sốt, mệt mỏi quá mức, tinh thần đi xuống hoặc sau khi uống rượu.
Điều trị các cơn ác mộng là hướng vào bất kỳ bệnh lý nền tâm thần nào.
Rối loạn hành vi giấc ngủ chuyển động mắt nhanh (REM)
Ngôn ngữ (đôi khi thô tục) và các chuyển động thường xuyên hung hăng (ví dụ: vẫy tay, đấm, đá) xảy ra trong giấc ngủ REM ở bệnh nhân rối loạn hành vi REM. Những hành vi này có thể mô phỏng giấc mơ của bệnh nhân, không rõ vì lý do gì mà trong suốt giấc ngủ REM thường không mất trương lực cơ. Khi bệnh nhân tỉnh dậy sau các hành vi đó họ nhận thức được những giấc mơ sống động.
Rối loạn hành vi giấc ngủ REM phổ biến hơn ở người cao tuổi, đặc biệt là những người bị rối loạn thoái hóa hệ thần kinh trung ương (CNS) – ví dụ: bệnh Parkinson, bệnh Alzheimer, chứng sa sút trí tuệ do mạch máu, teo đa hệ thống, liệt trên nhân tiến triển. Hành vi tương tự có thể xảy ra ở những bệnh nhân ngủ rũ hoặc dùng thuốc ức chế tái hấp thu norepinephrine (ví dụ atomoxetine, reboxetine, venlafaxine). Ở bệnh nhân rối loạn hành vi giấc ngủ REM, synuclein tích lũy trong tế bào thần kinh, như xảy ra trong các bệnh lý thoái hóa thần kinh như bệnh Parkinson, teo đa hệ thống và sa sút trí tuệ với thể Lewy. Bệnh nhân có thể bị bệnh Parkinson nhiều năm sau khi chẩn đoán rối loạn hành vi giấc ngủ REM.
Chẩn đoán có thể nghi ngờ dựa trên khai thác các triệu chứng do bệnh nhân hoặc người ngủ cùng kể. Chẩn đoán xác định bằng đo đa kí giấc ngủ. Nó có thể phát hiện hoạt động vận động quá mức trong thời kỳ REM; thiết bị theo dõi nghe nhìn có thể ghi lại những chuyển động cơ thể bất thường và ngôn ngữ. Khám thần kinh được thực hiện để loại trừ các bệnh lý thoái hóa thần kinh. Nếu phát hiện bất thường, chụp CT hoặc chụp MRI có thể được thực hiện.
Điều trị rối loạn hành vi giấc ngủ REM bằng clonazepam trước khi đi ngủ (1). Hầu hết các bệnh nhân cần uống thuốc kéo dài để tránh tái phát; khả năng dung nạp hoặc lạm dụng thấp. Một lựa chọn thay thế là melatonin 3 đến 18 mg (nhưng chưa biết liều lượng tối ưu).
Người ngủ cùng nên được cảnh báo về khả năng gây hại và có thể ngủ trên giường khác cho đến khi triệu chứng của bệnh nhân được giải quyết. Những đồ vật sắc nhọn cần được lấy ra khỏi giường bệnh.
Chuột rút ở chân liên quan đến giấc ngủ
Ở những bệnh nhân lớn tuổi trung niên và cao tuổi trong lúc ngủ các cơ cẳng chân hoặc cơ bàn chân thường bị chuột rút.
Chẩn đoán chuột rút liên quan đến giấc ngủ dựa trên tiền sử và thiếu các dấu hiệu thể chất hoặc khuyết tật.
Phòng ngừa bao gồm kéo giãn các cơ bị thương tổn trong vài phút trước khi ngủ (2). Kéo dãn ngay khi chuột rút xảy ra sẽ làm giảm triệu chứng nhanh chóng và tốt hơn là điều trị bằng thuốc.
Nhiều loại thuốc (ví dụ: quinine, bổ sung canxi và magiê, diphenhydramine, benzodiazepin, mexiletine) đã được sử dụng; không có loại nào có thể có hiệu quả và tác dụng bất lợi có thể đáng kể (đặc biệt là với quinine và mexiletine). Tránh uống cà phê và các chất kích thích khác.
Tài liệu tham khảo
1. Howell M, Avidan AY, Foldvary-Schaefer N, et al: Management of REM sleep behavior disorder: An American Academy of Sleep Medicine clinical practice guideline. J Clin Sleep Medicine 19(4). Xuất bản trực tuyến: Ngày 1 tháng 4 năm 2023. https://doi.org/10.5664/jcsm.10424
2. Hallegraeff JM, van der Schans CP, de Ruiter R, de Greef MHG: Stretching before sleep reduces the frequency and severity of nocturnal leg cramps in older adults: a randomised trial. J Physiother 2012;58(1):17-22. doi: 10.1016/S1836-9553(12)70068-1