Tiếp cận mạch máu

TheoCherisse Berry, MD, Rutgers Health, New Jersey Medical School
Xem xét bởiDavid A. Spain, MD, Department of Surgery, Stanford University
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 12 2022 | đã sửa đổi Thg 4 2023
v925077_vi

Một số thủ thuật được sử dụng để tiếp cận mạch máu.

Ống thông tĩnh mạch ngoại biên

Hầu hết các nhu cầu truyền dịch và thuốc của bệnh nhân có thể đáp ứng bằng ống thông tĩnh mạch ngoại biên qua da. Nếu vị trí mù qua da là khó khăn, hướng dẫn siêu âm thường cho kết quả thành công. Cắt tĩnh mạch có thể được sử dụng trong những trường hợp hiếm khi đặt ống thông qua da không khả thi. Các vị trí mở thông tĩnh mạch tiêu biểu là tĩnh mạch đầu ở cánh tay và tĩnh mạch hiển ở mắt cá chân. Tuy nhiên, việc mở thông tĩnh mạch hiếm khi cần thiết do sự phổ biến của các ống thông tĩnh mạch trung tâm đặt từ tĩnh mạch ngoại biên (PICC) và các đường truyền trong xương ở cả người lớn và trẻ em.

Để biết mô tả từng bước về cách đặt ống thông tĩnh mạch ngoại biên, hãy xem Cách đặt canun tĩnh mạch ngoại biênCách đặt canun tĩnh mạch ngoại biên, có dẫn hướng siêu âm.

Các biến chứng thường gặp (ví dụ như nhiễm trùng tại chỗ, huyết khối tĩnh mạch, viêm tắc tĩnh mạch, thoát dịch khoảng kẽ) có thể giảm được bằng kỹ thuật khử trùng tỉ mỉ trong khi đặt và thay thế hoặc rút ống thông trong vòng 72 giờ.

Đặt ống thông tĩnh mạch trung tâm

Bệnh nhân cần đường tiếp cận mạch máu chắc chắn hoặc lâu dài (ví dụ, để dùng kháng sinh, hóa trị, hoặc dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa hoàn toàn) và những người có tiếp cận tĩnh mạch ngoại biên kém cần phải có ống thông tĩnh mạch trung tâm (CVC). CVC cho phép truyền các dung dịch quá đậm đặc hoặc gây kích ứng cho tĩnh mạch ngoại biên và cho phép theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm (CVP).

CVCs có thể đặt vào các tĩnh mạch cảnh, tĩnh mạch dưới đòn, hoặc tĩnh mạch đùi hoặc đi qua tĩnh mạch ngoại biên thông qua các tĩnh mạch ngoại biên phần cánh tay (đường PICC). Mặc dù loại catheter và vị trí chọn thường được xác định theo đặc điểm lâm sàng và bệnh nhân, nhưng CVC tĩnh mạch trung tâm hoặc PICC thường được lựa chọn hơn CVC tĩnh mạch dưới đòn (liên quan đến nguy cơ cao chảy máu và tràn khí màng phổi) hoặc CVC tĩnh mạch đùi (liên quan đến nguy cơ nhiễm trùng). Trong thời gian ngừng tim, truyền dịch và thuốc qua CVC tĩnh mạch đùi thường không lên trên được cơ hoành do áp suất trong lồng ngực tăng cao khi tiến hành hồi sức tim phổi (CPR). Trong trường hợp này, các đường tiếp cận theo tĩnh mạch cảnh trong hoặc tĩnh mạch dưới đòn được lựa chọn nhiều hơn.

Hướng dẫn siêu âm để đặt đường tĩnh mạch cảng trong và PICC hiện nay đã trở thành điều trị tiêu chuẩn và giảm nguy cơ biến chứng. Nên điều chỉnh rối loạn đông máu bất cứ khi cần đặt CVC, và đường tiếp cận tĩnh mạch dưới đòn không nên dùng ở những bệnh nhân có rối loạn đông máu chưa được điều trị do vị trí chọc không thể theo dõi và băng ép được.

Video đặt canun có hướng dẫn siêu âm và đặt canun qua da
Đặt canun tĩnh mạch đùi dưới hướng dẫn siêu âm
Đặt canun tĩnh mạch đùi dưới hướng dẫn siêu âm

Gạc Chlorhexidine được sử dụng để chuẩn bị da ở vùng bẹn bên phải. Chúng ta sử dụng một nơi chuẩn bị rộng rãi để chuẩn bị cho việc đặt catheter tĩnh mạch trung tâm bên phải. Sau khi lớp chuẩn bị khô, chúng tôi sẽ đặt một lớp chắn vô trùng rộng. Săng mổ vô trùng phải bao phủ toàn bộ nửa dưới của cơ thể bao gồm cả giường giữa bệnh nhân và người bác sĩ phẫu thuật. Bây giờ chúng ta sẽ sử dụng một vỏ bọc vô trùng để nắm lấy đầu dò siêu âm đã được bôi một lớp gel siêu âm không vô trùng lên phía trên. Nắm chặt đầu dò siêu âm và sau đó cẩn thận kéo vỏ bọc vô trùng trên đầu dò để có thể có một đầu dò vô trùng cho việc thực hiện siêu âm thời gian thực.

Bây giờ chúng ta sẽ chuẩn bị ống thông. Dùng các nắp không kim cho cổng màu xanh và cổng màu trắng của ống thông và ta sẽ sử dụng nước muối sinh lý vô trùng để rửa từng cổng. Ở đây ta sẽ rửa cổng màu trắng và cổng màu xanh của ống thông có nắp đã lắp. Và với cổng màu nâu là cổng xa, dây dẫn hướng sẽ ra khỏi cổng đó, vì vậy chúng ta không đậy nắp nhưng sau khi xả sạch cổng đó, ta sẽ phải kẹp đường đó trước khi tháo ống tiêm nước muối sinh lý vô trùng.

Bây giờ với lidocaine 1 phần trăm, chúng ta sẽ dán nhãn vô trùng để có thể nhận dạng tất cả các ống tiêm vô trùng. Sau đó, gel siêu âm vô trùng được bôi lên da và bây giờ chúng ta sẽ quan sát động mạch đùi phải và tĩnh mạch đùi theo hướng ngang. Động mạch đùi nằm ở phía trên bên trái. Khi ép, có thể thấy rằng tĩnh mạch đùi bên phải bị bẹp xuống nhưng động mạch đùi bên phải ở nông hơn và về bên trái không bị bẹp. Chúng ta sẽ sử dụng lidocain 1% để gây tê cục bộ da và mô mềm bên dưới.

Bây giờ ta sẽ chọc kim của dụng cụ đặt ống thông theo góc khoảng 45 độ vào cùng độ sâu, xa khỏi đầu dò, vì tĩnh mạch sâu tới đầu dò. Chúng ta sẽ chọc vào để dần dần có thể thấy kim tiến vào tĩnh mạch và bây giờ ta đã có máu tĩnh mạch trở lại. Chúng ta sẽ nắm đốc kim và rút ống tiêm để xác nhận rằng đó là máu không đập. Bây giờ ta sẽ luồn dây dẫn hướng vô trùng qua vỏ bọc và qua kim. Xoay đầu dò theo hướng dọc và chúng ta có thể thấy rằng dây dẫn hướng đó đang luồn vào tĩnh mạch khi dây được đẩy qua kim.

Ở vị trí tĩnh mạch đùi, dây dẫn hướng có thể được đẩy thậm chí sâu tới 30 cm. Bây giờ vỏ bọc được gỡ bỏ và dây được giữ nguyên. Bây giờ kim đã được rút ra và để nguyên dây dẫn, bạn vẫn có thể thấy dây dẫn hướng nằm trong tĩnh mạch trên hình ảnh siêu âm. Và bây giờ có thể thả đầu dò xuống và có thể dùng gạc vô trùng để xác định vị trí chọc một cách rõ ràng, sau đó có thể dùng dao mổ để rạch da trên dây. Bây giờ luồn ống nong qua dây dẫn hướng và nắm lấy dây dẫn hướng ở phía đối diện của ống nong. Đẩy ống nong với chuyển động xoắn để nong một đường qua mô dưới da và vào tĩnh mạch đùi.

Bây giờ rút ống nong ra để lại dây dẫn hướng tại chỗ. Sau đó, luồn dây dẫn hướng trở lại qua ống thông tĩnh mạch trung tâm cho đến khi bạn có thể nắm được dây ở đầu đối diện của cổng màu nâu hoặc cổng xa của ống thông. Bây giờ nắm dây ở đầu xa của ống thông và sau đó đẩy ống thông đến cuối ống thông. Và bây giờ rút dây dẫn hướng trở lại vỏ bọc vô trùng của nó và rút nó hoàn toàn ra khỏi cơ thể. Khi rút dây dẫn hoàn toàn, cổng màu nâu sẽ được kẹp lại.

Bây giờ chúng ta sẽ đặt nắp không kim cuối cùng vào cổng màu nâu và sau đó sẽ mở nó ra và sau đó bạn sẽ rút máu vào ống tiêm và sau đó toàn bộ đường truyền được xả sạch, cẩn thận để không bơm bất kỳ không khí nào vào cổng đó. Bây giờ các cổng màu trắng và màu xanh của ống thông tĩnh mạch trung tâm được rửa sạch bằng nước muối sinh lý vô trùng. Hiện nay, một số phương pháp gây tê cục bộ được sử dụng để làm tê vùng da tiếp giáp với ống thông tĩnh mạch trung tâm, một miếng dán sinh học được dán tại vị trí đặt ống với mặt màu xanh lam nghiêng về phía trần nhà. Đây là một miếng dán được ngâm tẩm với chlorhexidine để giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng máu liên quan đến ống thông.

Và bây giờ sử dụng chỉ để cố định ống thông ở hai vị trí. Sau khi buộc chỗ này, đắp băng gạc vô trùng trên đường truyền trung tâm để hoàn tất thủ thuật. Ở đây, một dây buộc dụng cụ được sử dụng để cố định đường truyền trung tâm bằng cách khâu ở hai vị trí.

... đọc thêm

Video được tạo bởi www.hospitalprocedures.org.

Đặt canun tĩnh mạch dưới đòn dưới hướng dẫn siêu âm
Đặt canun tĩnh mạch dưới đòn dưới hướng dẫn siêu âm

Bệnh nhân được đặt ở tư thế Trendelenburg và sau đó dùng tăm bông tẩm chlorhexidine để chuẩn bị toàn bộ thành ngực trước bên trái, lên đến nửa cổ và sau đó phủ rộng khắp vai trái. Chlorhexidine phải được để khô hoàn toàn ít nhất hai phút để khử trùng tốt. Bây giờ dùng một săng mổ rộng vô trùng có lỗ chính giữa ở vị trí chọc kim. Săng mổ vô trùng này cần phải phủ đầu và gần như toàn bộ giường.

Bây giờ ta sẽ rút ra 1 phần trăm lidocaine mà chúng ta sẽ sử dụng để gây tê cục bộ. Vì tất cả dịch trong trường mổ vô trùng phải được dán nhãn sau khi ống tiêm chứa đầy lidocain, nhãn vô trùng cho lidocain 1% sẽ được dán thêm vào ống tiêm. Các ống tiêm nước muối sinh lý thông thường đã được dán nhãn sẵn và do đó không cần dán thêm nhãn vô trùng cho các ống tiêm đó. Bây giờ ta sẽ dùng một vỏ bọc vô trùng trùm lên đầu dò mảng tuyến tính để có thể thực hiện việc dẫn hướng siêu âm thời gian thực cho đường truyền dưới đòn có dẫn hướng siêu âm này. Vỏ bọc vô trùng phải bao phủ toàn bộ săng mổ vô trùng.

Bây giờ chúng ta sẽ dùng một số dây cao su vô trùng để buộc vỏ bọc vô trùng vào đúng vị trí. Ở đây chúng ta sử dụng nước muối sinh lý vô trùng để rửa sạch tất cả các cổng của ống thông. Khi làm điều này, chúng ta cũng sẽ trao đổi các nắp kim cổ điển cho các nắp không có kim và các nắp này được dùng cho cổng màu xanh lam và màu trắng của ống thông ba lòng này. Cổng màu nâu của ống thông ba lòng là cổng đầu xa và sẽ không có nắp vì cuối cùng dây dẫn hướng sẽ được luồn trở lại qua cổng màu nâu này. Sau khi bạn rửa sạch cổng màu nâu, cổng phải được kẹp lại trước khi rút ống tiêm.

Bây giờ ta sẽ sử dụng phương pháp gây tê cục bộ để làm tê da và mô dưới da cơ bản tại vị trí chọc kim. Sử dụng một đầu dò mảng tuyến tính với kỹ thuật đa mặt phẳng để chúng ta có thể quan sát kim từ da đến tận tĩnh mạch nách được hiển thị hình ảnh trên mặt phẳng dọc. Tại thời điểm này, bạn có thể thấy rằng kim gần như đâm pốp vào tĩnh mạch. Tại thời điểm này, nó vừa mới đâm pốp qua, ngay bây giờ, để bạn có thể hút máu tím như quan sát thấy ngay tại đây. Sau đó nắm chặt đốc kim và rút ống tiêm ra và sau đó dây có luồn đầu chữ J của dây dẫn hướng qua đốc kim với đường cong hướng về phía tim. Bạn có thể thấy rằng kim - dây dẫn hướng được hiển thị hình ảnh đang đi qua tĩnh mạch khi chúng ta dần dần đưa dây dẫn hướng qua kim. Và luồn dây dẫn hướng vào da đến độ sâu 20 cm.

Bây giờ bỏ vỏ bọc và sau đó rút kim ra qua dây. Sau đó, rạch một đường trên dây dẫn hướng tại vị trí chọc kim và đảm bảo rằng dây dẫn hướng có thể di chuyển tự do trong vết mổ đó. Bây giờ luồn ống nong qua dây dẫn hướng và sau đó đẩy dần dần ống nong bằng chuyển động xoắn để nong một đường dưới da đến tận tĩnh mạch nách. Bây giờ lấy ống nong ra, cẩn thận để không kéo dây dẫn hướng ra ngoài vì vô ý. Và bây giờ ống thông đang được đưa qua dây dẫn hướng và dần dần được kéo lại cho đến khi có thể nắm được dây dẫn hướng ra ngoài cổng màu nâu ở đầu xa.

Sau khi có thể nắm được dây dẫn bên ngoài cổng màu nâu thì bạn có thể đưa ống thông vào độ sâu thích hợp để đưa vào tĩnh mạch dưới đòn bên trái thường là 16 đến 17 cm. Tuy nhiên, với sự dẫn hướng của siêu âm, bạn sẽ tăng thêm 3 cm trên đó. Vì vậy, chúng ta đưa ống thông này đến tận 19 cm ở da. Bây giờ chúng ta rửa cả ba cổng, cổng màu xanh dương, cổng màu trắng và cuối cùng là cổng màu nâu bằng nước muối sinh lý vô trùng.

Bây giờ dán một miếng dán tẩm chất chống vi khuẩn hoặc miếng dán sinh học vào vị trí đặt ống thông để giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng máu liên quan đến ống thông. Chúng ta sẽ dùng thêm lidocain 1% để gây tê cục bộ và sau đó sử dụng một số mũi khâu để cố định ống thông ở hai vị trí. Một dây buộc dụng cụ có thể được sử dụng để khâu ống thông tại chỗ. Bây giờ chúng tôi sẽ dán băng vô trùng có miếng dán sinh học và toàn bộ vị trí đưa vào được quan sát trong cửa sổ mở, sau đó các cánh sẽ được dán ở phía dưới để thu nhỏ lỗ mà ba cổng đi qua. Và thủ thuật đã hoàn tất.

... đọc thêm

Video được tạo bởi www.hospitalprocedures.org.

Đặt canun tĩnh mạch dưới đòn qua da
Đặt canun tĩnh mạch dưới đòn qua da

Sử dụng gạc Chlorhexidine để chuẩn bị một chỗ vô trùng ở thành ngực trước bên phải. Ta sẽ sử dụng miếng gạc theo chuyển động qua lại để chuẩn bị một vùng rộng ở thành ngực trước và vai phải.

Bây giờ ta sẽ phủ một săng mổ vô trùng trên khu vực đó. Săng mổ vô trùng này phủ toàn bộ giường.

Bây giờ ta sẽ sử dụng nước muối sinh lý vô trùng để rửa cả ba cổng của một ống thông ba lòng. Chúng ta có thể đổi nắp bình thường trên ống thông ba lòng sang nắp không kim. Ta sẽ đậy các nắp không kim trên cổng màu trắng và cổng màu xanh lam của ống thông ba lòng. Chúng ta không dùng nắp không kim trên cổng màu nâu, đó là cổng đầu xa của ống thông ba lòng, vì đó là cổng mà cuối cùng mà dây dẫn hướng sẽ đi ra.

Khi xả cổng màu nâu, như được trình bày ở đây, chúng ta phải kẹp đường truyền trước khi tháo ống tiêm.

Bây giờ ta sẽ có được tất cả các thiết bị mà chúng ta cần, bao gồm kim của dụng cụ đặt ống thông, dây dẫn hướng vô trùng, dao mổ và ống nong ở vị trí có thể dễ dàng cầm nắm. Đường cong chữ J của dây dẫn hướng sẽ hướng về phía trái tim, trong một đường truyền dưới đòn hướng về phía chân, như được trình bày ở đây cho phía bên phải và bên trái.

Bây giờ chúng ta sẽ hút một ít lidocaine 1%, loại thuốc sẽ được sử dụng để gây tê cục bộ da và màng xương của xương đòn.

Tất cả các ống tiêm chứa dịch vô trùng này phải được dán nhãn trên trường mổ vô trùng của bạn. Nước muối sinh lý vô trùng để rửa được dán nhãn sẵn là natri clorua, nhưng ống tiêm lidocain 1% không được dán nhãn và do đó, các nhãn vô trùng này có thể được sử dụng để dán nhãn cho ống tiêm lidocain 1%, như được trình bày ở đây.

Giờ đây, ta sẽ sử dụng hai bàn tay để xác định đường cong của xương đòn, đây là điểm mốc chính mà bạn phải xác định khi thực hiện việc đặt đường truyền dưới đòn dưới xương đòn. Một khi bạn xác định được đường cong của xương đòn, bạn sẽ xác định vị trí chọc kim cách phần cong của xương đòn 1 cm về phía rãnh cơ delta ngực. Tại vị trí chọc kim đó, ta sẽ sử dụng lidocain 1% để gây tê cục bộ, như được trình bày ở đây. Chúng ta cũng chọc kim sâu cho đến khi có thể gây mê màng xương của xương đòn dọc theo đường chọc kim.

Bây giờ ta sẽ chọc kim của dụng cụ đặt ống thông vào bên dưới xương đòn, kim càng song song với sàn càng tốt. Đặt ngón trỏ vào hõm ức và sử dụng ngón cái của bàn tay không cầm ống tiêm để giúp dẫn hướng kim bên dưới xương đòn để chọc kim về phía trên của ngón trỏ và hõm ức cho đến khi nhìn thấy máu tĩnh mạch này loang ra. Sau đó chúng ta đẩy kim của dụng cụ đặt ống thông đó khoảng hai mm và sau đó tháo ống tiêm ra khi thấy máu không đập, bây giờ ta có thể đẩy dây dẫn hương qua kim cho đến khi đạt đến vạch 20 cm của dây dẫn hướng.

Bây giờ rút kim ra trên dây dẫn hướng với tác dụng kiểm soát chặt chẽ của dây dẫn hướng. Chúng ta sẽ sử dụng một con dao mổ để cắt da. Và bây giờ ta sẽ đẩy ống nong trên dây dẫn hướng để nong một đường qua da, mô dưới da và vào tĩnh mạch dưới đòn. Chúng ta sẽ đẩy ống nong bằng chuyển động xoắn cho đến khi nó nằm ở đốc ống nong để đặt đường truyền dưới đòn dưới xương đòn.

Bây giờ ta sẽ tháo ống nong và giữ tác dụng kiểm soát của dây dẫn hướng. Bây giờ ta sẽ đặt ống thông qua dây dẫn hướng và dây này sẽ đi ra cổng màu nâu của ống thông. Nắm ở đầu xa dây dẫn hướng bên ngoài cổng màu nâu và sau đó ống thông được đưa vào độ sâu thích hợp của mức đưa vào, theo đường dưới đòn phải là khoảng 15 cm trên da. Đối với đường truyền dưới đòn bên trái, bạn sẽ đẩy ống thông cho đến khi cách da khoảng 17 cm.

Bây giờ ta sẽ rút dây dẫn hướng ra khỏi ống thông, trực tiếp vào vỏ bọc của dây. Khi làm điều này, bạn phải kiểm soát ống thông để đảm bảo rằng ống thông không bị kéo ra ngoài khi bạn đang kéo dây dẫn hướng ra.

Bây giờ chúng ta sẽ lắp nắp không kim cuối cùng vào cổng màu nâu. Rút máu ở cổng màu nâu đó cho đến khi bạn có thể nhìn thấy nó trong ống tiêm có chứa nước muối sinh lý vô trùng. Sau đó, cổng được xả sạch bằng nước muối sinh lý.

Bây giờ cổng màu xanh và cổng trắng sẽ được rửa sạch và bạn chỉ cần rút nước muối sinh lý cho đến khi bạn thấy một chút máu ở đường truyền của cả cổng xanh và cổng trắng. Sau đó xả nước muối sinh lý để loại bỏ máu đó.

Bây giờ ta sẽ kẹp đường truyền trung tâm màu trắng và màu xanh lam, cách vị trí chọc kim khoảng hai centimet để có thể cố định đường truyền trung tâm vào da ở bốn vị trí. Chúng ta sẽ sử dụng lidocain 1% để làm tê da ở bốn nơi này.

Bây giờ ta sẽ dán Biopatch, là một miếng dán tẩm chlorhexidine, với mặt màu xanh lam của miếng dán hướng lên trần nhà phủ lên vị trí chọc kim. Điều này làm giảm nguy cơ nhiễm trùng dòng máu liên quan đến đường truyền trung tâm.

Ta sẽ sử dụng kìm kẹp kim có kim cong để khâu đường truyền trung tâm vào đúng vị trí ở bốn vị trí này. Ở đây, một dây buộc dụng cụ đang được sử dụng để cố định mũi khâu.

Sau khi tất cả bốn vị trí đó đã được khâu vào đúng vị trí, chúng ta có thể áp băng vô trùng có cửa sổ ở vị trí chèn, bao gồm cả Biopatch, trong khung hình. Sau đó, rãnh của băng kín vô trùng, sẽ có ba cổng của đường truyền trung tâm, đi qua rãnh đó.

Sau đó, phần thứ hai của băng bịt vết thương vô trùng có các cánh này sẽ đi bên dưới ba cổng của đường truyền trung tâm để cố định hoàn toàn đường truyền trung tâm vào đúng vị trí. Sau đó, có thể sử dụng một cây bút vô trùng để viết tắt tên của bạn, ngày và giờ của đường truyền trung tâm.

... đọc thêm

Video được tạo bởi www.hospitalprocedures.org.

Đặt canun tĩnh mạch đùi qua da
Đặt canun tĩnh mạch đùi qua da

Video được tạo bởi www.hospitalprocedures.org.

Đặt canun tĩnh mạch cảnh trong qua da
Đặt canun tĩnh mạch cảnh trong qua da

Video được tạo bởi www.hospitalprocedures.org.

Đặt canun qua da vào tĩnh mạch cảnh trong theo dẫn hướng siêu âm
Đặt canun qua da vào tĩnh mạch cảnh trong theo dẫn hướng siêu âm

Video được tạo bởi www.hospitalprocedures.org.

Chọc tĩnh mạch dưới đòn

Con số này cho thấy vị trí tay trong quá trình tiêm tĩnh mạch subclavian (đường tiếp cận tĩnh mạch dưới).

Các biến chứng của đặt catheter tĩnh mạch trung tâm

CVC có thể gây ra nhiều biến chứng (xem bảng Các biến chứng liên quan đến ống thông tĩnh mạch trung tâm). Tràn khí màng phổi xảy ra ở 1% số bệnh nhân sau khi đặt CVC. Rối loạn nhịp thất hoặc nhịp nhĩ thường xảy ra trong quá trình đặt ống thông nhưng thường tự hết và giảm khi rút dây dẫn hoặc ống thông. Tỷ lệ xâm thực của vi khuẩn theo đường ống thông mà không có nhiễm trùng toàn thân có thể lên tới 35%, trong khi đó tỷ lệ nhiễm khuẩn thực sự là từ 2 đến 8%. Huyết khối tĩnh mạch liên quan đến ống thông là một biến chứng ngày càng tăng, đặc biệt ở các chi trên. Hiếm khi, đặt ống thông động mạch ngẫu nhiên đòi hỏi phải phẫu thuật sửa chữa động mạch. Tràn dịch màng phổi và tràn dịch trung thất có thể xảy ra khi ống thông đặt ra ngoài mạch. Ống thông gây tổn thương van ba lá, gây viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn và thuyên tắc do ống thông và thuyên tắc do khí hiếm khi xảy ra.

Để giảm nguy cơ huyết khối tĩnh mạch và nhiễm trùng ống thông mạch, bác sĩ lâm sàng nên rút CVC càng sớm càng tốt. Da thuộc khu vực chọc tĩnh mạch phải được tẩy rửa và kiểm tra hàng ngày đối với nhiễm khuẩn tại chỗ; cần phải thay ống thông nếu có nhiễm trùng tại chỗ hoặc toàn thân. Một số bác sĩ lâm sàng cảm thấy rằng thay ống thông CVC theo khoảng thời gian đều đặn là có hiệu quả (ví dụ, mỗi 5 đến 7 ngày) ở bệnh nhân sepsis vẫn còn sốt; cách tiếp cận này có thể làm giảm nguy cơ vi khuẩn ngụ cư trên ống thông.

(Xem thêm Hướng dẫn Phòng ngừa Nhiễm trùng Liên quan đến Ống thông Nội mạch tại trang web của CDC.)

Bảng
Bảng

Đặt ống thông ngoại biên đường giữa

Các ống thông đường giữa (MC) có chiều dài từ 8 đến 20 cm, có đơn lòng hoặc lòng kép, và được đặt ở ngoại biên trong cánh tay không thuận trên hoặc dưới 1,5 cm phía trên hoặc dưới lõm trước khuỷu, vào tĩnh mạch nền, tĩnh mạch đầu hoặc tĩnh mạch cánh tay. Mặc dù việc đặt MC cần phải sử dụng kỹ thuật Seldinger sửa đổi và dẫn hướng siêu âm, nhưng MC không được coi là ống thông tĩnh mạch trung tâm vì đầu ống nằm ở hoặc dưới tĩnh mạch nách. Do đó, việc xác nhận bằng X-quang về vị trí chính xác của đầu MC là không cần thiết.

Tiêu chí sử dụng MC:

  • Bệnh nhân được dự đoán là cần liệu pháp tiêm tĩnh mạch từ trung bình đến dài hạn

  • Những bệnh nhân có khả năng tiếp cận tĩnh mạch kém cần phải nhiều lần thử chọc kim hoặc lấy máu

  • Bệnh nhân có khả năng cần phải lấy máu thường xuyên để theo dõi tình trạng của họ

MC được phát hiện có tỷ lệ viêm tĩnh mạch thấp hơn so với ống thông ngoại biên và tỷ lệ nhiễm trùng thấp hơn so với ống thông tĩnh mạch trung tâm (1).

Ống thông động mạch

Việc sử dụng các thiết bị đo huyết áp không xâm lấn tự động đã làm giảm nhu cầu sử dụng catheter động mạch đơn giản để theo dõi áp lực. Tuy nhiên, các ống thông này có lợi cho những bệnh nhân không ổn định, những người cần phải đo áp lực từng phút và những người cần lấy mẫu khí máu thường xuyên. Các chỉ định bao gồm sốc không đáp ứng điều trị và suy hô hấp. Huyết áp thường cao hơn một chút khi đo bằng catheter động mạch so với phương pháp đo bằng máy đo huyết áp. Độ dốc ban đầu, áp lực tâm thu tối đa và áp lực xung mạch tăng khi càng xa điểm đo, trong khi áp lực tâm trương và áp lực động mạch giảm. Vôi hóa mạch, xơ vữa động mạch, tắc đoạn gần, vị trí đầu chi có thể ảnh hưởng đến giá trị đo của ống thông động mạch.

Để biết mô tả từng bước về cách làm thông động mạch, hãy xem Cách đặt canun động mạch quayCách đặt canun động mạch quay, có dẫn hướng siêu âm.

Ống thông động mạch
Đặt một ống thông động mạch vào động mạch quay
Đặt một ống thông động mạch vào động mạch quay

Video được tạo bởi www.hospitalprocedures.org.

Đặt ống thông động mạch quay dưới hướng dẫn siêu âm
Đặt ống thông động mạch quay dưới hướng dẫn siêu âm

Ở đây chúng ta sẽ chuẩn bị một miếng gạc chlorhexidine và ta sẽ phủ một săng mổ vô trùng hoàn toàn. Lưu ý rằng chúng ta có một săng mổ vô trùng rộng cho thủ thuật này giống như với đường truyền trung tâm. Đây là một vỏ bọc vô trùng để bọc đầu dò siêu âm. Đầu dò đã có phủ sẵn gel không vô trùng trước khi bọc vỏ bọc vô trùng đó. Chuẩn bị lidocain 1% vô trùng. Bây giờ chúng ta buộc các dây cao su vô trùng trên vỏ đầu dò để cố định nó và bôi gel siêu âm vô trùng. Đây là lidocain 1% để gây tê cục bộ.

Chúng ta sẽ xác định động mạch quay, đầu tiên là trong mặt phẳng ngang và khi nó ở giữa màn hình siêu âm, ta sẽ từ từ xoay đầu dò theo mặt phẳng dọc để lúc này nhìn thấy động mạch quay trong mặt phẳng dọc. Với động mạch quay được hình hiển thị hình ảnh trong mặt phẳng dọc, chúng ta sẽ chọc kim vào động mạch quay hiện đang hiển thị hình ảnh theo kỹ thuật đa mặt phẳng để đi vào động mạch quay cho đến khi nhìn thấy máu loang ra. Bây giờ ta sẽ luồn dây dẫn hướng qua hoặc xuyên qua kim đó và sẽ đẩy ống thông qua dây dẫn hướng theo chuyển động quay. Chúng ta sẽ sử dụng một số miếng gạc bên dưới ống thông và sau đó sử dụng một miếng gạc 4 x 4 vô trùng để nắm lấy đường ống dẫn đến đường truyền động mạch. Việc này để bạn không làm lộn xộn găng tay vô trùng của mình. Ta sẽ vặn ống động mạch vào ống thông.

Bây giờ ta sẽ lấy một cái kim thẳng có nối chỉ phẫu thuật làm bằng tơ 2-0 để cố định ống thông đó vào da. Ta sẽ chọc kim qua một phần da tiếp giáp với rãnh trên ống thông. Sau đó, chúng ta sẽ chạy đầu cùn của kim từ bên ngoài này đến bên trong ở dưới rãnh của ống thông vài lần và sau đó sẽ buộc chỉ mũi khâu đó để cố định ống thông với da. Buộc sợi chỉ đó vào ống thông. Tại thời điểm này, ta sẽ áp một miếng dán sinh học với mặt màu xanh dương của miếng dán đó hướng lên trần nhà. Đây là miếng dán được tẩm chlorhexidine để giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng máu liên quan đến ống thông. Bây giờ, một miếng gạc vô trùng đang được áp lên miếng dán sinh học và ống thông. Và thủ thuật đã hoàn tất.

... đọc thêm

Video được tạo bởi www.hospitalprocedures.org.

Đặt ống thông động mạch đùi dưới hướng dẫn siêu âm
Đặt ống thông động mạch đùi dưới hướng dẫn siêu âm

Video được tạo bởi www.hospitalprocedures.org.

Các biến chứng của đặt catheter động mạch

Tại tất cả các vị trí, các biến chứng bao gồm chảy máu, nhiễm trùng, huyết khối, bóc tách nội mạc và thuyên tắc xa. Nên rút bỏ ống thông nếu có dấu hiệu nhiễm trùng tại chỗ và toàn thân.

Các biến chứng động mạch quay gây thiếu máu cục bộ bàn tay và cẳng tay do huyết khối hoặc tắc mạch, bong tách lớp áo trong hoặc co thắt tại vị trí đặt ống thông. Nguy cơ huyết khối động mạch cao hơn ở các động mạch nhỏ (giải thích tỷ lệ cao hơn ở phụ nữ) và tăng thời gian lưu ông thông. Các động mạch bị tắc gần như tái thông hoàn toàn sau khi rút bỏ ống thông.

Các biến chứng động mạch đùi bao gồm gây bong mảng vữa sơ gây tắc mạch khi luồn dây dẫn. Tỷ lệ huyết khối và thiếu máu cục bộ đầu xa cao hơn nhiều so với ống thông động mạch quay.

Các biến chứng động mạch nách bao gồm các khối máu tụ, không thường xuyên nhưng cần xử trí cấp cứu vì sự chèn ép đám rối cánh tay có thể dẫn đến bệnh thần kinh ngoại biên vĩnh viễn. Xả ống thông động mạch nách có thể đưa khí và đẩy cục máu đông vào trong. Để tránh di chứng thần kinh của các loại tắc mạch này, các bác sĩ lâm sàng nên chọn động mạch cánh tay bên trái để đặt ống thông (các nhánh động mạch cánh tay bên trái xa mạch cảnh hơn so với bên phải).

Tài liệu tham khảo về ống thông

  1. Alexandrou E, Ramjan L, Spencer T, et al: The use of midline catheters in the adult acute care setting – clinical implications and recommendations for practice. JAVA 16:35–41, 2011.

Truyền trong xương

Bất kỳ loại dịch hoặc thuốc được tiêm tĩnh mạch định kỳ (bao gồm cả các chế phẩm máu) có thể cung cấp qua một mũi kim cứng được đặt vào khoang tủy của các xương dài được chọn. Dịch truyền đến được tuần hoàn trung tâm nhanh tương đương truyền tĩnh mạch. Kỹ thuật này được sử dụng phổ biến ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, có vỏ bọc xương mỏng và dễ xâm nhập và ở đó tiếp cận tĩnh mạch ngoại biên và tĩnh mạch trung tâm có thể khá khó khăn, đặc biệt là khi có sốc hoặc ngừng tim. Tuy nhiên, kỹ thuật này có thể được sử dụng ở những bệnh nhân lớn tuổi ở các vị trí khác nhau (ví dụ, xương ức, đầu trên xương chày, xương cánh tay) thông qua các thiết bị đặc biệt (ví dụ thiết bị đục lỗ, thiết bị khoan) phổ biến hiện nay. Do đó, truyền trong xương đang trở nên phổ biến ở người lớn.

Để biết mô tả từng bước về cách đặt canun trong xương, hãy xem Cách đặt canun trong xương, bằng tay và bằng máy khoan điện.

Đặt các đường truyền dịch trong xương
Cách đặt đường truyền trong xương
Cách đặt đường truyền trong xương

Thủ thuật do bác sĩ Eric Sanders thị phạm, EM-2. Walter A. Schrading, FACEP, giám sát viên của khoa. Chương trình nội trú cấp cứu của Bệnh viện WellSpan York, York, PA. Mẫu vật xác được cung cấp bởi Hội đồng Giải phẫu Bang Maryland, DHMH. Được quay tại Trường Y, Khoa Dịch vụ Giải phẫu, Đại học Maryland.

Cách đặt đường truyền trong xương theo cách thủ công
Cách đặt đường truyền trong xương theo cách thủ công

© Elsevier Inc. Bảo lưu mọi quyền.

Video này dành cho mục đích sử dụng thông tin cá nhân. Người dùng không được sao chép, tái tạo, cấp phép, đăng ký, bán, cho thuê hoặc phân phối video này.

Đặt kim truyền trong xương (IO)

Các ngón tay và ngón tay cái của bác sĩ ôm quanh xương chày để cố định nó; Bàn tay không nên đặt đằng sau vị trí chọc (để tránh bị đâm vào tay). Thay vào đó, có thể đặt một chiếc khăn phía dưới đầu gối để hỗ trợ nó. Bác sĩ giữ chặt kim trong lòng bàn tay còn lại, hướng điểm chọc tránh khoảng diện khớp và bản tăng trưởng. Kim được chọc vào với áp lực vừa phải và chuyển động quay; dừng kim lại ngay sau khi có tiếng pốp cho thấy kim xâm nhập của vỏ xương. Một số loại kim có vỏ bằng nhựa, có thể điều chỉnh để tránh thụt quá sâu vào hoặc xuyên qua xương.

quizzes_lightbulb_red
Test your KnowledgeTake a Quiz!