Tổng quan về rối loạn khớp thái dương hàm (TMD)

TheoGary D. Klasser, DMD, Louisiana State University School of Dentistry
Xem xét bởiDavid F. Murchison, DDS, MMS, The University of Texas at Dallas
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa đã sửa đổi Thg 8 2025
v950754_vi

Thuật ngữ rối loạn khớp thái dương hàm là thuật ngữ chung cho một nhóm các tình trạng cơ xương và thần kinh cơ liên quan đến khớp thái dương hàm (TMJ), các cơ nhai (ví dụ: cơ thái dương, cơ nhai và cơ cánh bướm), cũng như các dây thần kinh và dây chằng xung quanh. Rối loạn khớp thái dương hàm (trước đây gọi là rối loạn khớp thái dương hàm hoặc hội chứng khớp thái dương hàm [TMJ]) thường biểu hiện bằng chứng đau ở hàm, mặt và cổ và/hoặc rối loạn chức năng khớp hàm (thường là tiếng kêu ở khớp và/hoặc giảm phạm vi chuyển động) thường đi kèm với các bệnh lý đi kèm khác bao gồm đau đầu hoặc đau tai. Mọi người được coi là bị rối loạn khớp thái dương hàm (TMD) khi đau hoặc rối loạn chức năng đủ dữ dội để khiến họ phải tìm kiếm dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp.

Các rối loạn khớp thái dương hàm có các biểu hiện khác nhau tùy thuộc vào nguyên nhân, nhưng hầu hết đều liên quan đến các vấn đề về cơ nhai, dây chằng khớp thái dương hàm hoặc các tổn thương bên trong khớp. Tăng vận động khớp (lỏng lẻo) cũng có thể là nguyên nhân.

Trật khớp bên trong TMJ là kết quả của tình trạng cử động lồi cầu bị thay đổi hoặc bị rối loạn trong hố ổ chảo hoặc so với đĩa khớp (xem hình Khớp thái dương hàm). Đĩa khớp, được cấu tạo từ mô liên kết xơ dày đặc và có hình dạng giống như một tế bào hồng cầu trưởng thành, đóng vai trò như một lớp đệm giữa các bề mặt xương. Không giống như hầu hết các khớp được lót bằng sụn hyalin, bề mặt xương TMJ được lót bằng sụn sợi. Nguyên nhân gây ra sự thay đổi hoặc rối loạn vận động bao gồm chấn thương lớn trực tiếp hoặc gián tiếp (ví dụ: chấn thương gập-duỗi cổ – còn gọi là chấn thương cổ do va chạm mạnh – có thể gây đau lan truyền), chấn thương nhỏ (ví dụ: do các hành vi bất thường như nghiến răng khi thức/ngủ và/hoặc niềng hoặc đẩy hàm dưới hoặc nhai nướu liên tục), bệnh lý toàn thân (ví dụ: viêm khớp dạng thấp, viêm khớp tự phát thiếu niên), nhiễm trùng tại chỗ hoặc nhiễm trùng toàn thân và sai khớp cắn cấp tính (ví dụ: từ chấn thương do vật tầy).

(Xem thêm Trật khớp hàm, Gãy xương thái dương, và U xương hàm.)

Khớp thái dương hàm

Khớp này được hình thành bởi lồi cầu xương hàm dưới và hố ổ chảo của xương thái dương; đĩa khớp sụn xơ có chức năng như một lớp đệm giữa các mặt khớp.

Chẩn đoán rối loạn thái dương hàm

  • Chủ yếu là bệnh sử và khám thực thể

  • Đôi khi sử dụng các thăm dò hình ảnh

Rối loạn TMJ cần được phân biệt với nhiều tình trạng tương tự khác (xem bảng Một số Tình trạng giống với Rối loạn Thái dương hàm). Đau tăng lên khi dùng ngón tay ấn vào khớp khi há miệng có thể là dấu hiệu của rối loạn khớp thái dương hàm.

Bảng
Bảng

Bệnh nhân được yêu cầu mô tả cảm giác đau và xác định các vùng đau. Thông thường, các cơ nhai (cơ thái dương, cơ nhai và cơ cánh bướm giữa) và các cơ cổ và cơ chẩm được sờ nắn để phát hiện tình trạng ấn đau chung và các điểm kích hoạt (các điểm dễ bị kích thích khi sờ nắn sẽ gây đau rễ thần kinh ở một vùng khác). Không thể sờ trực tiếp các cơ chân bướm bên.

Bệnh nhân được quan sát khi mở miệng rộng nhất có thể. Khi bệnh nhân há miệng, hàm thường bị lệch về phía đau. Nghe bằng ống nghe và sờ nắn khớp trong quá trình ngậm và há miệng có thể phát hiện ra tình trạng ấn đau và kẹt, thường kèm theo âm thanh trong bao khớp như tiếng lách cách, tiếng nổ lách tách hoặc tiếng lạo xạo.

Có thể sờ thấy rõ nhất cử động của lồi cầu bằng cách đặt hai ngón tay giữa lên vùng trước não thất (cực bên của ống dẫn lưu) và tạo áp lực trung gian nhẹ nhàng hoặc bằng cách đặt ngón tay thứ 5 vào ống tai ngoài và tạo áp lực nhẹ nhàng về phía trước khi bệnh nhân cử động hàm. Độ há miệng trung bình của bệnh nhân ít nhất là 40 mm (đo giữa răng cửa giữa trên và dưới). Để tính đến sự khác biệt về kích thước của bệnh nhân, bệnh nhân thường phải có thể đưa 3 ngón tay (ngón thứ hai, ngón thứ ba và ngón thứ tư) theo chiều dọc vào miệng cho đến khớp liên đốt xa.

Chẩn đoán hình ảnh thường không cần thiết để xác định chẩn đoán, nhưng có thể được thực hiện trong trường hợp chẩn đoán không chắc chắn hoặc khi cần thiết để xác nhận bệnh lý nội khớp (ví dụ: di lệch đĩa khớp, bệnh thoái hóa khớp) (1).

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

  1. 1. Schiffman E, Ohrbach R. Executive summary of the Diagnostic Criteria for Temporomandibular Disorders for clinical and research applications. J Am Dent Assoc. 2016;147(6):438-445. doi:10.1016/j.adaj.2016.01.007

quizzes_lightbulb_red
Test your KnowledgeTake a Quiz!