Viêm xoang

TheoMarvin P. Fried, MD, Montefiore Medical Center, The University Hospital of Albert Einstein College of Medicine
Xem xét bởiLawrence R. Lustig, MD, Columbia University Medical Center and New York Presbyterian Hospital
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa đã sửa đổi Thg 6 2025
v947252_vi

Viêm xoang là tình trạng viêm các xoang cạnh mũi do nhiễm vi rút, vi khuẩn hoặc nấm hoặc phản ứng dị ứng; những yếu tố này cũng có thể dẫn đến viêm ở mũi, gọi là viêm mũi. Viêm xoang thường xảy ra cùng với viêm mũi. Các triệu chứng bao gồm tắc nghẽn và nghẹt mũi, chảy nước mũi mủ, đau hoặc tức nặng ơ mặt; đôi khi cũng kèm theo cảm giác khó chịu, đau đầu và/hoặc sốt. Điều trị viêm xoang cấp do vi rút bao gồm hít hơi nước và dùng thuốc co mạch tại chỗ hoặc theo đường toàn thân. Điều trị nghi ngờ nhiễm trùng do vi khuẩn bằng kháng sinh, chẳng hạn như amoxicillin/clavulanate hoặc doxycycline, trong 5 đến 7 ngày đối với viêm xoang cấp tính và tối đa 6 tuần đối với viêm xoang mạn tính. Thuốc chống nghẹt mũi, xịt mũi glucocorticoid và phương pháp chườm nóng và ẩm có thể giúp làm giảm các triệu chứng và cải thiện tình trạng dẫn lưu xoang. Viêm xoang tái phát có thể cần phẫu thuật để cải thiện dẫn lưu xoang.

Viêm xoang có thể được phân loại là cấp tính (hoàn toàn khỏi trong < 4 tuần); hoặc tái phát (≥ 4 đợt cấp tính riêng biệt mỗi năm, mỗi đợt hoàn toàn khỏi trong < 30 ngày nhưng tái phát theo chu kỳ, với ít nhất 10 ngày giữa thời điểm các triệu chứng hoàn toàn khỏi và bắt đầu một đợt mới); và mạn tính (kéo dài > 12 tuần) (1). Có rất ít dữ liệu về giai đoạn trung gian của viêm xoang, đôi khi được gọi là viêm xoang bán cấp (khỏi hoàn toàn sau 4 tuần đến 12 tuần). Viêm xoang do nguyên nhân nhiễm trùng hoặc do viêm thường liên quan đến viêm mũi không do dị ứng).

Tài liệu tham khảo

  1. 1. Rosenfeld RM, Piccirillo JF, Chandrasekhar SS, et al. Clinical practice guideline (update): Adult Sinusitis Executive Summary. Otolaryngol Head Neck Surg. 2015;152(4):598-609. doi:10.1177/0194599815574247

Nguyên nhân gây Viêm xoang

Viêm xoang cấp tính ước tính ảnh hưởng đến 30 triệu người lớn hàng năm ở Hoa Kỳ (khoảng 9% tổng dân số) (1). Bệnh này xảy ra ở những bệnh nhân có hệ miễn dịch bình thường trong cộng đồng và hầu như luôn do vi rút (ví dụ: rhinovirus, cúm, parainfluenza); nhiễm vi rút có thể gây viêm mũi kèm theo. Một tỷ lệ nhỏ phát triển nhiễm khuẩn thứ phát với Streptococci, pneumococci, Haemophilus influenzae,Moraxella catarrhalis, hay staphylococci. Đôi khi áp xe quanh chóp răng của răng hàm trên có thể lan đến xoang bên trên. Nhiễm trùng cấp tính mắc phải trong bệnh viện thường là do vi khuẩn, điển hình là tụ cầu vàng hoặc trực khuẩn gram âm như Klebsiella pneumoniae, Pseudomonas aeruginosa, Proteus mirabilisEnterobacter. Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch có thể bị viêm xoang do nấm xâm lấn cấp tính (xem Viêm xoang ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch). Cần phải ngh ngờ viêm xoang cấp tính do vi khuẩn ở những bệnh nhân có triệu chứng dai dẳng 10 ngày sau khi khởi phát ban đầu (2).

Viêm xoang mạn tính có tỷ lệ hiện mắc gộp trên toàn cầu là 9% (3). Bệnh bao gồm nhiều yếu tố kết hợp lại để tạo nên tình trạng viêm mạn tính. Bệnh dị ứng mạn tính, bất thường về cấu trúc (ví dụ, polps mũi), chất gây kích ứng môi trường (ví dụ ô nhiễm không khí, khói thuốc lá), rối loạn hệ thống niêm dịch lông chuyển, và các yếu tố khác tương tác với các sinh vật lây nhiễm gây ra viêm xoang mạn tính. Các sinh vật thường là vi khuẩn (có thể tạo ra màng biofilm trên bề mặt niêm mạc) nhưng có thể là nấm. Nhiều vi khuẩn đã được liên quan, bao gồm vi khuẩn Gram âm và các vi khuẩn kị khí vùng miệng họng nhiễm nhiều chủng vi khuẩn là phổ biến. Trong một vài trường hợp, viêm xoang mãn tính là thứ phát từ nhiễm trùng răng. Nhiễm nấm (Aspergillus,Sporothrix,Pseudallescheria) có thể là mãn tính và có xu hướng tấn công các bệnh nhân cao tuổi và suy giảm miễn dịch.

Viêm xoang nấm dị ứng là một dạng viêm xoang mạn tính có đặc trưng là ngạt mũi, chảy dịch mũi nhày và thường là polyp mũi. Đó là một phản ứng dị ứng với sự hiện diện của nấm tại chỗ, thường là Aspergillus, và không phải là do nhiễm trùng xâm lấn.

Viêm xoang xâm lấn do nấm là bệnh nhiễm trùng cấp tính hoặc mạn tính, tiến triển, đôi khi gây tử vong ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch, thường do loài Aspergillus hoặc Mucor gây ra.

Các yếu tố nguy cơ

Viêm xoang thường do nhiều yếu tố, liên quan đến sự tương tác phức tạp giữa các yếu tố giải phẫu, cơ địa dễ mắc bệnh và tác động của môi trường. Các yếu tố nguy cơ gây viêm xoang bao gồm:

  • Viêm mũi dị ứng

  • Polyps mũi

  • Ống thông mũi dạ dày hoặc ống thông mũi khí quản

  • Nhét gạc mũi

  • Suy giảm miễn dịch nguyên phát (ví dụ: nồng độ globulin miễn dịch như IgA, IgM và IgG thấp gây ra tình trạng suy giảm miễn dịch biến đổi phổ biến)

  • Tình trạng suy giảm miễn dịch (ví dụ: bệnh tiểu đường, nhiễm HIV giai đoạn tiến triển)

  • Thời gian nằm trong khoa hồi sức tích cực kéo dài

  • Bỏng nặng

  • Xơ nang

  • Rối loạn vận động lông mao

  • Hút thuốc lá

  • Tiếp xúc với khói thuốc thụ động

  • Ô nhiễm không khí;

  • Tiếp xúc nghề nghiệp gây ra hít phải bụi, hóa chất và các chất gây kích ứng khác

Tài liệu tham khảo về căn nguyên

  1. 1. Rosenfeld RM. CLINICAL PRACTICE. Acute Sinusitis in Adults. N Engl J Med. 2016;375(10):962-970. doi:10.1056/NEJMcp1601749

  2. 2. Peters AT, Spector S, Hsu J, et al. Diagnosis and management of rhinosinusitis: a practice parameter update. Ann Allergy Asthma Immunol. 2014;113(4):347-385. doi:10.1016/j.anai.2014.07.025

  3. 3. Min HK, Lee S, Kim S, et al. Global Incidence and Prevalence of Chronic Rhinosinusitis: A Systematic Review. Clin Exp Allergy. 2025;55(1):52-66. doi:10.1111/cea.14592

Sinh lý bệnh Viêm xoang

Trong bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên (URI), màng nhầy ở mũi bị sưng lên làm tắc nghẽn lỗ thông của xoang cạnh mũi và oxy trong xoang được hấp thụ vào các mạch máu của màng nhầy. Việc này dẫn tới áp suất âm trong xoang (viêm xoang chân không) là khởi đầu của tình trạng viêm xoang. Yếu tố gây hạ oxy máu (HIF)-1α đóng vai trò quan trọng trong phản ứng viêm và tăng sản sinh chất nhầy (1). Nếu duy trì được độ chân không, dịch tiết từ niêm mạc sẽ phát triển và lấp đầy xoang; dịch tiết có thể đóng vai trò là môi trường cho vi khuẩn xâm nhập vào xoang qua lỗ thông hoặc qua tình trạng viêm mô tế bào hoặc viêm tắc tĩnh mạch lan rộng ở lớp đệm niêm mạc. Trong viêm xoang, có sự điều hòa tăng cường của MUC5AC, một gen quan trọng chịu trách nhiệm sản sinh chất nhầy và dịch tiết ở đường hô hấp. Tình trạng tràn ra của huyết thanh và bạch cầu để chống lại nhiễm trùng dẫn đến áp lực dương gây đau đớn phát triển trong xoang bị tắc nghẽn (2). Niêm mạc trở nên sung huyết và phù nề.

Các biến chứng

Biến chứng chính của viêm xoang là sự lây lan tại chỗ của nhiễm trùng do vi khuẩn, gây viêm mô tế bào trước vách ngăn, quanh hốc mắt hoặc hốc mắt, huyết khối xoang hang, áp xe ngoài màng cứng hoặc áp xe não. Viêm màng não và mủ dưới màng cứng cũng có thể xảy ra.

Tài liệu tham khảo sinh bệnh học

  1. 1. Kim YJ, Cho HJ, Shin WC,et al. Hypoxia-mediated mechanism of MUC5AC production in human nasal epithelia and its implication in rhinosinusitis. PLoS One. 2014;9(5):e98136. Xuất bản ngày 19 tháng 5 năm 2014. doi:10.1371/journal.pone.0098136

  2. 2. Orlandi RR, Kingdom TT, Hwang PH, et al. Tuyên bố đồng thuận quốc tế về dị ứng và nấm da: Rhinosinusitis. Int Forum Allergy Rhinol 6 (Suppl 1):S22–209, 2016. doi: 10.1002/alr.21695

Triệu chứng và dấu hiệu Viêm xoang

Viêm xoang cấp tính và mạn tính gây ra các triệu chứng và dấu hiệu tương tự, bao gồm chảy mũi mủ, nhức và đau ở mặt, ngạt mũi và tắc nghẽn, giảm ngửi, hởi thở hôi và ho (đặc biệt là vào ban đêm). Thông thường cơn đau nghiêm trọng hơn trong viêm xoang cấp tính. Vùng xung quanh xoang bị ảnh hưởng có thể đau, sưng và đỏ.

  • Xoang hàm gây đau ở vùng mặt trước xoang hàm, hố nanh, đau răng, và nhức đầu vùng trán.

  • Viêm xoang trán gây đau ở vùng trán và nhức đầu vùng trán.

  • Viêm xoang sàng gây ra đau đằng sau và giữa hai mắt, đau đầu trán thường được mô tả là sự phân chia, viêm tấy quanh ổ mắt, và chảy nước mắt.

  • Viêm xoang bướm gây ra đau cục bộ ít hơn thường liên quan đến khu vực trán hoặc chẩm.

Cảm giác khó chịu có thể gặp. Biểu hiện sốt và ớn lạnh cho thấy tình trạng nhiễm trùng đã lan rộng ra ngoài xoang.

Niêm mạc mũi đỏ và phù nề; có thể có hiện tượng chảy mủ mũi màu vàng hoặc xanh. Mủ loãng hoặc mủ đặc chảy ra ở khe giữa với xoang hàm, xoang sàng trước, hoặc xoang trán bị viêm, và mủ chảy phía trong của cuốn mũi giữa khi viêm xoang sàng sau hoặc xoang bướm.

Biểu hiện của biến chứng bao gồm sưng và đỏ quanh hốc mắt, lồi mắt, liệt vận nhãn, lú lẫn hoặc giảm ý thức và đau đầu dữ dội.

Chẩn đoán Viêm xoang

  • Chủ yếu là tiền sử và khám thực thể (trong viêm xoang cấp tính)

  • Đôi khi chuujp CT (đối với viêm xoang mạn tính)

  • Đôi khi nội soi mũi trước và nội soi xoang (đối với viêm xoang mạn tính)

  • Đôi khi xét nghiệm máu (xét nghiệm IgE đặc hiệu dị ứng và nồng độ globulin miễn dịch IgG, M, và A, đối với viêm xoang mạn tính)

Nhiễm trùng xoang, đặc biệt là khi cấp tính, thường được chẩn đoán trên lâm sàng (1). Chụp hình ảnh không được chỉ định trong viêm xoang cấp tính trừ khi có những dấu hiệu cho thấy các biến chứng, trong trường hợp đó cần phải chụp CT. Trong viêm xoang mạn tính, chụp CT được thực hiện thường xuyên hơn và có thể cần phải chụp X-quang chóp răng trong viêm xoang hàm trên mạn tính để loại trừ áp xe quanh chóp răng. Vì chúng thường do nhiễm vi rút gây ra nên xét nghiệm xác nhận tác nhân gây bệnh là vi rút thường không được thực hiện.

Viêm xoang mạn tính là một phát hiện ngẫu nhiên thường gặp ở những bệnh nhân chụp CT đầu vì những lý do khác (ví dụ: bệnh nhân đau đầu có hoặc không có chấn thương đầu nhẹ) nhưng hiếm khi là nguyên nhân gây ra các triệu chứng của bệnh nhân. Chẩn đoán hình ảnh rất hữu ích khi nghi ngờ polyp. Polyp xoang đôi khi chỉ có thể được nhìn thấy trên phim CT đầu đứng dọc hoặc đứng ngang. Các khối u của nền sọ cũng có thể được quan sát thấy trên các kiểm tra chẩn đoán hình ảnh.

Nuôi cấy vi khuẩn hiếm khi được thực hiện vì nuôi cấy hợp lệ đòi hỏi phải lấy mẫu bằng nội soi xoang hoặc chọc xoang; nuôi cấy dịch tiết mũi thường quy thường không đủ do quần cư vi khuẩn cộng sinh bình thường ở mũi. Nuôi cấy thường chỉ được thực hiện khi điều trị theo kinh nghiệm không thành công, ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch và một số nguyên nhân gây viêm xoang mắc phải trong bệnh viện.

Bệnh nhân bị viêm xoang tái phát và viiieem xoang mạn tính nên xét nghiệm IgE đặc hiệu với các chất gây dị ứng trong môi trường để chẩn đoán tình trạng cơ địa dị ứng. Những bệnh nhân không đáp ứng đủ với thuốc kháng sinh hoặc viêm xoang tái phát mặc dù đã điều trị bằng phẫu thuật hoặc thuốc, nên được xét nghiệm chuyên khoa để phát hiện tình trạng suy giảm miễn dịch. Việc sàng lọc các globulin miễn dịch A (IgA), IgG và IgM là điều cần thiết để loại trừ tình trạng suy giảm miễn dịch mạn tính. Trong những trường hợp tái phát, cũng nên cân nhắc xét nghiệm thêm để tìm chứng loạn động lông mao nguyên phát hoặc xơ nang.

Viêm xoang ở trẻ em

Viêm xoang ở trẻ em ban đầu có thể khó phân biệt được với nhiễm trùng đường hô hấp trên (URI). Nghi ngờ viêm xoang do vi khuẩn khi chảy mũi mủ kéo dài trong > 10 ngày kèm theo mệt mỏi và ho. Sốt thường không phổ biến. Có thể đau nhức vùng mặt hoặc khó chịu. Khám mũi sẽ thấy dịch mủ chảy ra và cần phải loại trừ dị vật.

Chẩn đoán viêm xoang cấp tính ở trẻ em là dựa vào lâm sàng. CT tránh được vì lo lắng về việc tiếp xúc với tia X trừ khi có dấu hiệu của các biến chứng mắt hoặc nội sọ (ví dụ như viêm tấy quanh ổ mắt, mất thị lực, nhìn đôi, hoặc liệt vận nhãn), có viêm xoang mãn tính không đáp ứng với điều trị, hoặc có mối lo ngại ung thư vòm họng (ví dụ, dựa vào tắc nghẽn mũi một bên, đau, chảy máu mũi, sưng mặt, hoặc, đặc biệt liên quan, thị lực giảm). Sưng vùng quanh ổ mắt ở trẻ sơ sinh cần đánh giá nhanh viêm tấy quanh ổ mắt và có thể can thiệp phẫu thuật để ngăn ngừa thị lực suy yếu và nhiễm trùng nội sọ.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

  1. 1. Peters AT, Spector S, Hsu J, et al. Diagnosis and management of rhinosinusitis: a practice parameter update. Ann Allergy Asthma Immunol. 2014;113(4):347-385. doi:10.1016/j.anai.2014.07.025

Điều trị Viêm xoang

  • Các biện pháp tại chỗ để tăng cường dẫn lưu mủ (ví dụ, khí dung, thuốc co mạch tại chỗ)

  • Đôi khi là các loại kháng sinh (ví dụ: amoxicillin/clavulanate [amoxicillin/axit clavulanic], doxycycline)

Trong viêm xoang cấp tính, việc cải thiện dẫn lưu xoang và kiểm soát nhiễm trùng là mục đích của điều trị. Khí dung; rửa xoang bị viêm bằng dung dịch nóng ẩm; đồ ăn nóng giúp giảm bớt sự tắc nghẽn mũi và thúc đẩy dẫn lưu. Phương pháp điều trị chung là hỗ trợ và thuốc kháng sinh thường được dùng cho các triệu chứng kéo dài, nặng hơn hoặc ngày càng trầm trọng hơn. Các phương pháp điều trị nói chung là nhất quán trong hầu hết các hướng dẫn, với sự khác biệt chủ yếu ở thời điểm bắt đầu dùng kháng sinh và tiêu chuẩn đánh giá thất bại điều trị (1, 2, 3, 4, 5).

Các biện pháp tại chỗ

Thuốc thông mũi tại chỗ (thuốc co mạch), chẳng hạn như thuốc xịt phenylephrine 0,25% 3 giờ một lần hoặc oxymetazoline 8 giờ đến 12 giờ một lần, có hiệu quả nhưng chỉ nên dùng tối đa 5 ngày hoặc theo chu kỳ lặp lại là 3 ngày dùng và 3 ngày nghỉ cho đến khi viêm xoang khỏi hẳn. Sử dụng thuốc co mạch tại chỗ trong thời gian dài hơn 3 ngày có thể dẫn đến tình trạng sung huyết tái phát (viêm mũi do thuốc). Thuốc chống nghẹt mũi theo đường toàn thân có hiệu quả kém hơn và nên tránh dùng.

Nước muối rửa mũi có thể giúp các triệu chứng giảm nhẹ nhưng rườm rà và không thoải mái, và bệnh nhân yêu cầu được chỉ dẫn để thực hiện đúng cách; nó có thể tốt hơn cho bệnh nhân viêm xoang tái phát, những người có nhiều khả năng làm chủ (và chịu đựng) kỹ thuật này. Thuốc kháng histamin đường uống thế hệ thứ hai (fexofenadine, cetirizine, loratadine) cũng có thể giúp làm giảm các triệu chứng ở mũi.

Thuốc xịt mũi glucocorticoid làm giảm tình trạng viêm tại chỗ nhưng thường mất ít nhất 15 ngày để có hiệu quả và lợi ích hạn chế (2).

Điều trị kháng sinh

Điều trị bằng kháng sinh cho viêm xoang cấp tính

Mặc dù hầu hết các trường hợp viêm xoang cấp tính do virus và tự khỏi, trước đây nhiều bệnh nhân được cho thuốc kháng sinh vì khó phân biệt lâm sàng do virus hay vi khuẩn. Tuy nhiên, mối lo ngại hiện nay về việc tạo ra các vi khuẩn kháng kháng sinh đã dẫn đến việc sử dụng các kháng sinh có chọn lọc hơn. Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ (4) và Viện Hàn lâm Dị ứng, Hen suyễn và Miễn dịch học Hoa Kỳ gợi ý những đặc điểm sau đây giúp xác định những bệnh nhân nên bắt đầu dùng kháng sinh (1):

  • Từ nhẹ tới trung bình các triệu chứng xoang vẫn tồn tại trong ≥ 10 ngày

  • Các triệu chứng nghiêm trọng (ví dụ, sốt ≥ 39°, đau nặng) trong ≥ 3 đến 4 ngày

  • Các triệu chứng xoang xấu đi sau khi cải thiện ban đầu từ một viêm đường hô hấp trên điển hình của virus ("ốm hai lần" hoặc hai pha mắc bệnh)

Bởi vì nhiều sinh vật gây bệnh kháng lại các thuốc đã sử dụng trước đó nên amoxicillin/clavulanate (amoxicillin/axit clavulanic) 875 mg uống, 12 giờ một lần (25 mg/kg uống, 12 giờ một lần, ở trẻ em) là thuốc điều trị bước đầu hiện nay. Bệnh nhân có nguy cơ kháng thuốc kháng sinh được cho liều cao hơn là 2 g, đường uống mỗi 12 giờ (45 mg/kg dạng uống mỗi 12 giờ ở trẻ em). Những bệnh nhân có nguy cơ kháng thuốc bao gồm trẻ dưới 2 tuổi hoặc trên 65 tuổi, những người đã được điều trị kháng sinh trong tháng trước, những người đã được nhập viện trong vòng 5 ngày qua và những người bị suy giảm miễn dịch.

Người lớn bị dị ứng với penicillin có thể dùng tetracycline (ví dụ: doxycycline) hoặc fluoroquinolone đường hô hấp (ví dụ: levofloxacin, moxifloxacin). Trẻ bị dị ứng penicillin có thể dùng levofloxacin, hoặc clindamycin cộng với cephalosporin thế hệ 3 (cefixime hoặc cefpodoxime).

Nếu có cải thiện trong vòng 3 đến 5 ngày thì tiếp tục dùng thuốc. Người lớn không có các yếu tố nguy cơ đề kháng được điều trị tổng cộng từ 5 đến 7 ngày; những người lớn có nguy cơ được điều trị trong 7 đến 10 ngày. Trẻ em được điều trị từ 10 đến 14 ngày. Nếu không cải thiện sau 3 đến 5 ngày, hãy sử dụng một loại thuốc khác. Thuốc macrolide (ví dụ: azithromycin, clarithromycin), trimethoprim/sulfamethoxazole và đơn trị liệu bằng cephalosporin không còn được khuyến nghị nữa do vi khuẩn kháng thuốc. Phẫu thuật cấp cứu là cần thiết nếu bị mất thị lực hoặc có khả năng mất thị lực sắp xảy ra.

Algorithm for Use of Antibiotics in Acute Sinusitis

Chuyển thể từ Chow AW, Benninger MS, Brook I, et al: IDSA clinical practice guideline for acute bacterial rhinosinusitis in children and adults. Clinical Infectious Diseases 54 (8):1041–5 (2012).

Điều trị viêm xoang mạn tính bằng kháng sinh

Đối với các đợt cấp của viêm xoang mạn tính ở người lớn, nên bắt đầu hoặc tiếp tục các liệu pháp hỗ trợ như xịt glucocorticoid vào mũi và rửa mũi bằng nước muối sinh lý. Điều trị bằng kháng sinh cũng được khuyến nghị và kéo dài trong 4 tuần đến 6 tuần hoặc đôi khi lâu hơn. Độ nhạy của các tác nhân gây bệnh được phân lập từ dịch tiết xoang và đáp ứng của bệnh nhân đối với hướng dẫn điều trị tiếp theo (2). Đối với viêm xoang mạn tính có polyp mũi, có thể cân nhắc dùng glucocorticoid theo đường toàn thân trong thời gian ngắn (1 tuần đến 3 tuần) sau đó dùng doxycycline (3 tuần); đối với viêm xoang mạn tính không có polyp mũi, có thể cân nhắc dùng macrolide trong thời gian dài (3 tháng) (6). Liệu pháp chống nấm tại chỗ hoặc theo đường toàn thân thường không được khuyến nghị ở những bệnh nhân bị polyp mũi (2).

Đối với trẻ em bị viêm xoang mạn tính, amoxicillin/clavulanate (amoxicillin/acid clavulanic) liều cao là liệu pháp điều trị bước đầu. Ở trẻ em dị ứng với beta-lactam, kháng sinh macrolide (ví dụ: azithromycin) có thể được sử dụng (7, 8).

Viêm xoang không đáp ứng với điều trị kháng sinh có thể cần phẫu thuật (mở xoang hàm, phẫu thuật nạo xoang sàng, hoặc xoang bướm) để cải thiện thông khí và dẫn lưu và loại bỏ các mủ đặc trong xoang, biểu mô viêm, và niêm mạc quá phát. Những thủ thuật này thường được thực hiện qua đường mũi với sự hỗ trợ của nội soi (9). Viêm xoang trán mạn tính có thể được điều trị hoặc với sự cốt hóa xoang trán trước hoặc dùng nội soi trong những bệnh nhân được chọn. Việc sử dụng định vị nội soi mũi xoang với các tổn thương tại xoang và ngăn ngừa thương tổn xung quanh các cấu trúc lân cận (như mắt và não) đã trở nên phổ biến. Sự tắc nghẽn mũi góp phần vào việc dẫn lưu kém cũng đòi hỏi phẫu thuật.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Peters AT, Spector S, Hsu J, et al. Diagnosis and management of rhinosinusitis: a practice parameter update. Ann Allergy Asthma Immunol. 2014;113(4):347-385. doi:10.1016/j.anai.2014.07.025

  2. 2. Rosenfeld RM, Piccirillo JF, Chandrasekhar SS, et al. Clinical practice guideline (update): adult sinusitis. Otolaryngol Head Neck Surg. 2015;152(2 Suppl):S1-S39. doi:10.1177/0194599815572097

  3. 3. Desrosiers M, Evans GA, Keith PK, et al. Canadian clinical practice guidelines for acute and chronic rhinosinusitis. Allergy Asthma Clin Immunol. 2011;7(1):2. Xuất bản ngày 10 tháng 2 năm 2011. doi:10.1186/1710-1492-7-2

  4. 4. Chow AW, Benninger MS, Brook I, et al. IDSA clinical practice guideline for acute bacterial rhinosinusitis in children and adults. Clin Infect Dis. 2012;54(8):e72-e112. doi:10.1093/cid/cir1043

  5. 5. Fokkens WJ, Lund VJ, Mullol J, et al. EPOS 2012: European position paper on rhinosinusitis and nasal polyps 2012. A summary for otorhinolaryngologists. Rhinology. 2012;50(1):1-12. doi:10.4193/Rhino12.000

  6. 6. Rudmik L, Soler ZM. Medical Therapies for Adult Chronic Sinusitis: A Systematic Review. JAMA. 2015;314(9):926-939. doi:10.1001/jama.2015.7544

  7. 7. Head K, Chong LY, Piromchai P, et al. Systemic and topical antibiotics for chronic rhinosinusitis. Cochrane Database Syst Rev. 2016;4(4):CD011994. Xuất bản ngày 26 tháng 4 năm 2016. doi:10.1002/14651858.CD011994.pub2

  8. 8. Brietzke SE, Shin JJ, Choi S, et al. Clinical consensus statement: pediatric chronic rhinosinusitis. Otolaryngol Head Neck Surg. 2014;151(4):542-553. doi:10.1177/0194599814549302

  9. 9. Almosnino G, Little RE. Surgical management of rhinosinusitis for the allergist-immunologist. Ann Allergy Asthma Immunol. 2023;131(3):311-316. doi:10.1016/j.anai.2023.05.015

Những điểm chính

  • Viêm xoang cấp tính ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch là do virut.

  • Các bệnh nhân suy giảm miễn dịch có nguy cơ nhiễm nấm hoặc vi khuẩn xâm nhập mạnh hơn.

  • Chẩn đoán chủ yếu là lâm sàng; CT và nuôi cấy (lấy qua nội soi hoặc chọc xoang) chủ yếu được thực hiện cho các trường hợp mạn tính, kháng thuốc hoặc không điển hình.

  • Kháng sinh có thể chờ trong khi chờ điều trị triệu chứng, thời gian phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng và thời gian của các triệu chứng.

  • Thuốc kháng sinh điều trị bước đầu là amoxicillin/clavulanate, thay thế bằng doxycycline hoặc fluoroquinolones hô hấp.

Viêm xoang xâm lấn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch

Mucormycosis

Viêm xoang do nấm hoặc vi khuẩn có thể tiến triển và thậm chí dẫn đến tử vong ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch do bệnh tiểu đường không được kiểm soát tốt, giảm bạch cầu trung tính, bệnh ác tính về máu hoặc nhiễm HIV ở giai đoạn tiến triển. Bệnh nhân đang điều trị bằng liệu pháp ức chế miễn dịch, bao gồm glucocorticoid theo đường toàn thân và hóa trị, có nguy cơ cao mắc tình trạng này. Viêm xoang xâm lấn thường cần phải điều trị bằng cả thuốc kháng khuẩn theo đường toàn thân (thuốc chống nấm và kháng sinh) và phẫu thuật cắt lọc.

Bệnh nấm đen (nấm zygo, đôi khi còn gọi là nấm phyco) là một bệnh nấm do nấm mucorales, bao gồm các loài Mucor,Absidia, và Rhizopus. Những loại nấm mốc này có mặt ở khắp mọi nơi trong môi trường và có thể lây nhiễm cho con người thông qua việc hít phải bào tử, ăn phải thực phẩm bị ô nhiễm hoặc tiêm vào da hoặc vết thương hở. Bệnh nấm đen có thể phát triển ở những bệnh nhân không kiểm soát tốt bệnh tiểu đường. Bệnh bhiễm trùng này được đặc trưng bởi bản chất xâm lấn mạch máu, sự xuất hiện của mô đen, mất hoạt tính trong khoang mũi và các dấu hiệu thần kinh thứ phát sau tình trạng huyết khối động mạch ngược dòng trong hệ thống động mạch cảnh. Bệnh nấm đen ở mũi-hốc mắt-não là dạng bệnh được mô tả rõ nhất ở những bệnh nhân bị tiểu đường không kiểm soát được. Hiếm gặp hơn, nhiễm trùng phổi, da, đường tiêu hóa hoặc các bệnh nấm đen lan tỏa khác ở những vị trí không phổ biến có thể xảy ra ở những bệnh nhân mắc bệnh ác tính về huyết học hoặc ghép tạng (1).

Việc sinh thiết ngay tổ chức trong mũi cho mô bệnh học và nuôi cấy được thực hiện. Chẩn đoán dựa trên xét nghiệm mô bệnh học ở mũi hoặc các mô bị ảnh hưởng khác. Biểu hiện của sợi nấm đặc trưng bởi các sợi nấm không đều, không có vách ngăn với các nhánh vuông góc trong mô không có mạch máu giúp xác nhận chẩn đoán. Xét nghiệm huyết thanh hoặc các xét nghiệm máu khác hiếm khi có ích.

Điều trị đòi hỏi phải kiểm soát các tình trạng cơ bản (như kiểm soát đường máu), phẫu thuật cắt bỏ các mô hoại tử, và điều trị amphotericin B đường tĩnh mạch toàn thân. Posaconazole và isavuconazole có thể được sử dụng cho các trường hợp kháng thuốc hoặc như liệu pháp giảm bậc (2).

Aspergillosis và candidiasis

AspergillusCandida có thể lây nhiễm bệnh ở các xoang cạnh mũi của bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch thứ phát sau khi điều trị bằng các thuốc gây độc tế bào hoặc do các bệnh suy giảm miễn dịch như bệnh bạch cầu, u lympho, u đa tủy xươngnhiễm HV giai đoạn tiến triển. Bệnh nhiễm trùng do loài Aspergillus có thể biểu hiện dưới dạng mô polyp ở mũi cũng như niêm mạc dày lên; cần phải có mô để chẩn đoán.

Phẫu thuật xoang tối đa và liệu pháp tiêm tĩnh mạch toàn thân amphotericin B được sử dụng để kiểm soát các nhiễm trùng nguy hiểm tính mạng. Nếu loại trừ bệnh nấm đen, có thể sử dụng thuốc azole như fluconazole hoặc voriconazole, có hoặc không có echinocandin (ví dụ: caspofungin, micafungin, anidulafungin) thay cho amphotericin. (3).

Tài liệu tham khảo

  1. 1. Lynch JP 3rd, Fishbein MC, Abtin F, et al. Part 1: Mucormycosis: prevalence, risk factors, clinical features, and diagnosis. Expert Rev Anti Infect Ther. 2023;21(7):723-736. doi:10.1080/14787210.2023.2220964

  2. 2. Reid G, Lynch JP 3rd, Fishbein MC, et al. Mucormycosis. Semin Respir Crit Care Med. 2020;41(1):99-114. doi:10.1055/s-0039-3401992

  3. 3. Colombo AL, de Almeida Júnior JN, et al. Candida and invasive mould diseases in non-neutropenic critically ill patients and patients with haematological cancer. Lancet Infect Dis. 2017;17(11):e344-e356. doi:10.1016/S1473-3099(17)30304-3

quizzes_lightbulb_red
Test your KnowledgeTake a Quiz!