Chấn thương khi sinh

TheoArcangela Lattari Balest, MD, University of Pittsburgh, School of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 11 2023

Sử dụng forceps trong cuộc sinh thường gây chấn thương cho trẻ sơ sinh. Tỷ lệ chấn thương ở trẻ sơ sinh do các ca sinh khó hay chấn thương khi sinh đang giảm do sử dụng ngày càng tăng mổ lấy thai thay cho hỗ trợ khi sinh khác như, giác hút, hoặc là Forceps vừa hoặc mạnh.

Nguy cơ bị chấn thương tăng lên khi trẻ sơ sinh lớn so với tuổi thai (đôi khi liên quan đến bệnh tiểu đường mạn tính của mẹ hoặc bệnh tiểu đường thai kỳ của mẹ) hoặc khi có ngôi mông hoặc các biểu hiện bất thường khác, đặc biệt là ở trẻ sinh non.

Chấn thương dây thần kinh mặt ở trẻ sơ sinh

Dây thần kinh mặt là dây thần kinh bị thương tổn thường xuyên nhất. Tuy nhiên, một số trường hợp tổn thương do áp lực lên dây thần kinh xảy ra trong cuộc đẻ do tư thế thai nhi (đầu nằm trên vai, gai đuôi cột sống hay do u xơ tử cung).

Tổn thương dây thần kinh mặt thường xảy ra ở ngoại vi (liệt ngoại biên) do vị trí tổn thương thường ở phía sau chố thoát ra từ trần hòm nhĩ và gây ra triệu chứng: mất cân đối khuôn mặt đặc biệt là khi trẻ khóc. Việc xác định tổn thương thần kinh bên nào đôi khi gây ra nhầm lẫn. Tuy nhiên, có thể phân biệt được bằng cách quan sát cơ mặt bên tổn thương sẽ không vận động được. Tổn thương cũng có thể xảy ra cho nhánh riêng lẻ của dây thần kinh, thường là nhánh hàm dưới.

Một nguyên nhân khác của sự không đối xứng trên mặt là sự không đối xứng hàm dưới do áp lực trong tử cung; trong trường hợp này do sự phân bố thần kinh là hoàn toàn bình thương nên cả 2 bên mặt các cơ đều có thể vận động bình thường. Trong sự bất đối xứng dưới hàm dưới, hàm trên và mặt cắn của hàm dưới không song song, nó phân biệt nó với tổn thương dây thần kinh mặt. Bất thường bẩm sinh có thể gây ra bất đối xứng khi cười do thiếu 1 bên cơ hạ mép (cơ tam giác môi). Bất thường này là không đáng kể về mặt lâm sàng nhưng phải được phân biệt với tổn thương dây thần kinh mặt.

Không cần thiết chỉ định xét nghiệm hay điều trị với những trường hợp tổn thương thần kinh mặt ngoại vi hay sự mất cân xứng của xương hàm dưới. Thường tự khỏi sau 2 đến 3 tháng tuổi.

Chấn thương đám rối cánh tay ở trẻ sơ sinh

Tổn thương đám rối thần kinh cánh tay thường xảy ra so động tác kéo cổ thai nhi khi sinh thường gặp trong trường hợp mắc vai, ngôi ngược, hay do sa vai trong đẻ ngôi đầu. Chấn thương có thể đơn giản do kéo hoặc do chảy máu ở dây thần kinh hoặc so xé rách rễ hoặc dây thần kinh hoặc giật mạnh rễ thần kinh với kèm theo tổn thương tủy cổ. Có thể có tổn thương kết hợp bao gồm (ví dụ, gãy xương đòn hoặc xương cánh tay hoặc khớp vai hoặc thậm chí tổn thương tủy cổ). Đẩy áp lực mạnh vào tử cung trong cuộc đẻ có thể là nguyên nhân trong một số trường hợp.

Các tổn thương bao gồm

  • Tổn thương đám rối cánh tay trên (C5 đến C7): Tác động đến các cơ xung quanh vai và khuỷu tay

  • Đám rối dưới (C8 đến T1): Đám rối dưới (C8 đến T1): chủ yếu ảnh hưởng đến cơ của cẳng tay và bàn tay

  • Toàn bộ dây thần kinh cánh tay: Tác động lên toàn bộ chi trên và các sợi giao cảm của T1 (ngực 1)

Vị trí và loại tổn thương gốc dây thần kinh xác định tiên lượng.

Liệt Erb là một tổn thương đám rối cánh tay thông thường. Đây là tổn thương dây thần kinh cánh trên (C5 đến C7) gây ra vai khép và quay vào trong với cẳng tay sấp. Đôi khi mất phản xạ cơ nhị đầu và Phản xạ Moro không đối xứng. Liệt cơ hoành cùng bên do chấn thương thần kinh hoành cũng rất phổ biến. Điều trị liệt Erb bằng các biện pháp hỗ trợ như vật lý trị liệu, tư thế bao gồm việc bảo vệ vai khỏi chuyển động quá mức bằng cách cố định cánh tay qua bụng trên và ngăn ngừa sự cứng khớp bằng cách nhẹ nhàng thực hiện các bài tập thụ động theo hoạt động của những khớp liên quan hằng ngày bắt đầu từ 1 tuần tuổi.

Liệt Erb ở trẻ sơ sinh
Dấu các chi tiết
Ảnh này cho thấy xoay trong của khớp vai, duỗi khuỷu tay, và gấp cổ tay và các ngón tay trong liệt Erb sản khoa.
© Springer Science+Business Media

Liệt Klumpke là hiếm gặp và là tổn thương phần thấp của đám rối thần kinh cánh tay gây liệt bàn tay và cổ tay. Phản xạ cầm nắm thường mất nhưng phản xạ cân cơ nhị đầu thì bình thường. Tổn thương dây giao cảm Ngực 1 thường gây ra Hội chứng Horner một bên (co đồng tử, sụp mi, giảm tiết mồ hôi mặt). Tập vận động thụ động thường là phường pháp điều trị cần thiết.

Liệt Erb hay liệt Klump thường không gây ra mất cảm giác, có thể thử bằng test đau. Các tổn thuơng này có thể tự phục hồi nhanh chóng nhưng cũng có thể còn tồn tại kéo dài. Nếu sự thiếu hụt trầm trọng hơn hoặc kéo dài hơn 1 hoặc 2 tuần, liệu pháp vật lý trị liệu hoặc vận động khớp vai được khuyến cáo. Nếu không cải thiện trong vòng 1 hoặc 2 tháng, có nguy cơ bị tàn tật lâu dài và tăng trưởng kém. Đánh giá bởi một bác sĩ thần kinh nhi khoa và/hoặc bác sĩ chỉnh hình tại một bệnh viện chuyên khoa nhi được chỉ định để xác định liệu phẫu thuật thăm dò và sửa chữa vi phẫu của đám rối thần kinh cánh tay có thể cải thiện kết quả.

Sự tổn thương của toàn bộ đám rối thần kinh ít gặp hơn, với biểu hiện chi trên mềm nhẽo, không hoặc rất ít vận động, mất các phản xạ và thường mất cảm giác kèm theo. Hội chứng Horner thường ở một bên thường xảy ra trong các trường hợp tổn thương nặng. Tổn thương bó tháp một bên (với, giảm vận động, dấu hiệu Babinski) cho thấy chấn thương tủy sống và MRI nên được chỉ định.

Tổn thương thần kinh hoành ở trẻ sơ sinh

Hầu hết các chấn thương dây thần kinh Hoành (khoảng 75%) có liên quan đến tổn thương đám rối thần kinh cánh tay. Tổn thương thường là một bên và do tình trạng kéo căng phần đầu và cổ trong cuộc đẻ.

Trẻ có thể có triệu chứng suy hô hấp với giảm thông khí phổi bên tổn thương.

Điều trị tổn thương dây thần kinh hoành chủ yếu là hỗ trợ. Một số trường hợp có thể cần hỗ trợ áp lực dương hoặc thở máy.

Khoảng 1/3 số trẻ sẽ tự phục hồi trong tháng đầu tiên. Số trẻ còn lại không hồi phục cần phẫu thuật tạo nếp gấp cơ hoành.

Các tổn thương thần kinh ngoại biên khác ở trẻ sơ sinh

Chấn thương dây thần kinh ngoại vi khác (bao gồm, thần kinh quay, thần kinh hông, thần kinh bịt) rất hiếm ở trẻ sơ sinh và thường không liên quan đến chuyển dạ và cuộc sinh. Chúng thường là hậu quả thứ phát của các tổn thương khu trú khác (ví dụ, tiêm vào hoặc gần dây thần kinh hông).

Điều trị tổn thương dây thần kinh ngoại biên chủ yếu là điều trị hỗ trợ, đặt tư thế đối kháng với các cơ bị liệt và chờ đợi tự phục hồi. Các chỉ đinh ngoại khoa với tổn thương dây thần kinh thường rất hiếm.

Hầu hết các chấn thương dây thần kinh ngoại biên đều tự hồi phục hoàn toàn.

Tổn thương tủy sống ở trẻ sơ sinh

Tổn thương tủy sống (xem thêm Tổn thương tủy sống ở trẻ em) hiếm gặp và có mức độ đứt dây cột sống khác nhau, thường kèm theo xuất huyết. Đứt hoàn toàn tủy sống thường rất hiếm. Chấn thương thường xảy ra ở cuộc đẻ ngôi ngược tác động lực mạch kéo theo chiều dọc cột sống Tổn thương có thể do hậu quả của chảy máu ngoài màng cứng gây chèn ép tủy sống hoặc tư thế trẻ quá ngửa cổ trong tử cung ("tư thế thai bay"). Tổn thương thường ảnh hưởng đến vùng tủy cổ thấp (C5 đến C7). Tổn thương vùng tủy cổ cao nếu xảy ra sẽ nguy cơ gây tử vong do ức chế hô hấp hoàn toàn. Đôi khi có thể nghe tiếng clic hay clac trong lúc chuyển dạ.

Tổn thương ban đầu có thể gây tình trạng choáng tủy với biểu hiện trẻ hoàn toàn mềm nhũn (nặng hơn mức độ tổn thương thật sự của tủy sống). Mất cảm giác và giảm tiết mồ hôi phần cơ thể phía dưới tổn thương. Tổn thương có thể phục hồi trong vòng vài ngày hoặc vài tuần. Trẻ thường thở bình thường vì vận động của cơ hoành được chi phổi bởi nhánh thần kinh cao hơn (ở C3 đến C5) so với tổn thương dây điển hình. Nếu tổn thương tủy sống hoàn toàn sẽ gây liêt cơ liên sườn, cơ bụng, trực tràng, bàng quang gây ra tình trạng đái ỉa không tự chủ. Hậu quả có thể dẫn đến sự thay đổi nhiệt độ không ổn định theo sự thay đổi nhiệt độ môi trường.

MRI chỉ định để đánh giá tổn thương, đồng thời loại trừ các căn nguyên khác như u bẩm sinh hay u máu chèn ép tủy Dịch não tủy thường có máu. Dịch não tủy thường có máu.

Điều trị tổn thương tủy sống bao gồm chăm sóc ngăn ngừa loét da, điều trị kịp thời các nhiễm trùng đường tiểu và đường hô hấp, và đánh giá định kỳ để xác định tắc nghẽn đường tiểu sớm.

Với sự chăm sóc thích hợp, hầu hết trẻ sơ sinh sống sót trong nhiều năm. Nguyên nhân gây tử vong ở bênh nhân thường do tình trạng viêm phổi tái phát và mất chức năng thận.

Tổn thương ngoài hộp sọ ở trẻ sơ sinh

Hầu hết các chấn thương này thường là nhẹ, tuy nhiên, một vài trường hợp có thể có chấn thương nghiêm trọng xảy ra.

Đầu bị kéo dài

Đầu ép khuôn không phải là một chấn thương, nhưng cha mẹ có thể lo lắng về điều đó. Tình trạng này thường xảy ra khi sinh thường do áp lực do các cơn co tử cung gây ra lên hộp sọ dễ uốn của trẻ sơ sinh khi nó đi qua ống đẻ. Khuôn này là một quá trình bình thường và không phải là một dấu hiệu của chấn thương. Sa van hai lá thường không cần điều trị.

Trầy xước da đầu

Trầy xước và tổn thương da đầu, thường ở bề mặt và nhẹ, có thể xảy ra trong quá trình sinh nở cần sử dụng dụng cụ (có tới 10% số trẻ sơ sinh được hút thai khi sinh) hoặc theo dõi điện cực da đầu. Trừ khi có nhiễm trùng, những vết trầy xước này thường không cần điều trị.

Bướu huyết thanh

Bướu huyết thanh là khối dịch dưới da đầu do sự thoát mạch của huyết thanh dưới áp lực xảy ra trong cuộc chuyển dạ lên đầu trẻ ở những trẻ đẻ ngôi đầu.

Chảy máu dưới màng cứng

Xuất huyết dưới galeal là tình trạng máu chảy vào khoang giữa cân galeal và màng xương. Nó được đặc trưng bởi một khối lùng nhùng trên toàn bộ da đầu, bao gồm cả vùng thái dương và biểu hiện trong vài giờ đầu sau khi sinh. Chảy máu trong khoang có thể dẫn đến mất máu nặng và shock do mất máu – cần được truyền máu cấp cứu. Chảy máu dưới cân galeal có thể là hậu quả của sử dụng các biện pháp can thiệp như forceps hay giác hút hoặc từ các bệnh lý rối loạn đông máu.

Trong một số trường hợp, tình trạng giảm thể tích máu nghiêm trọng và sốc xảy ra trước khi xuất huyết dưới màng cứng. Điều trị xuất huyết dưới niêm mạc hầu hết là hỗ trợ bằng truyền nước muối và đóng gói hồng cầu theo yêu cầu.

Tụ máu đầu

Là tình trạng chảy máu ở màng xương sọ. Tụ máu xương sọ được phân biệt với chảy máu dưới cân Galeal bởi nó được giới hạn ở một xương mà không thể vượt qua đường khớp của xương đó. Khối u máu đầu thường ở một bên và ở vùng chẩm hoặc vùng đỉnh. Một số ít trường hợp có thể có vết rạn xương trên nền xương. Máu tụ thường rõ ràng trong vài ngày đầu sau sinh sau đó tan dần và hết sau vài tuần.

Điều trị u máu não là không cần thiết nhưng có thể dẫn đến thiếu máu hoặc tăng bilirubin máu. Đôi khi, máu tụ canxi hóa thành một khối xương.

Vỡ xương sọ

Vỡ xương sọ rất hiếm gặp. Hầu hết là kết quả của việc nằm đầu trên một xương nổi bật trong tử cung hoặc từ việc hỗ trợ sinh kẹp. Trẻ sơ sinh bị lõm sọ hoặc chấn thương đầu khác cũng có thể bị chảy máu dưới màng cứng, xuất huyết dưới nhện, hoặc dập não hoặc rách não (xem Xuất huyết nội sọ). Tổn thương vỡ xương sọ có thể sờ thấy (đôi khi nhìn thấy) sự biến dạng của hộp sọ, và phải được phân biệt với vành màng xương nhô cao sờ thấy xảy ra với u cephalhematomas.

Chụp CT hoặc MRI sọ để chần đoán xác định vỡ xương sọ và là loại trừ các biến chứng kèm theo khác.

Có thể cần phải phẫu thuật nâng cao thần kinh và có nguy cơ mắc u nang màng não mềm.

Xuất huyết nội sọ ở trẻ sơ sinh

Xuất huyết trong hoặc xung quanh não có thể xảy ra ở bất kỳ trẻ sơ sinh nào nhưng đặc biệt phổ biến ở những trẻ sinh non; khoảng 25% trẻ non tháng < 1500 g bị xuất huyết nội sọ.

Nguyên nhân chủ yếu gây xuất huyết trong sọ bao gồm

  • Thiếu oxy-thiếu máu

  • Biến đổi huyết áp

  • Tăng tưới máu do tái tưới máu

  • Các áp lực tác động lên đầu trong quá trình chuyển dạ

Sự hiện diện của chất nền mầm (một khối tế bào phôi nằm trên nhân đuôi trên thành bên của não thất bên dễ bị xuất huyết) làm cho xuất huyết não thất dễ xảy ra hơn ở trẻ non tháng. Nguy cơ bị bất kỳ xuất huyết nội sọ nào cũng tăng lên do rối loạn đông máu (ví dụ, thiếu vitamin K, bệnh hemophilia, đông máu nội mạch rải rác).

Xuất huyết có thể xảy ra ở nhiều vị trí trong hệ thần kinh trung ương. Xuất huyết nhỏ dưới màng nhện, liềm đại não và lều tiểu não thường là những phát hiện ngẫu nhiên trong giải phẫu tử thi ở trẻ sinh non tử vong vì nguyên nhân không phải là hệ thần kinh trung ương. Xuất huyết lớn dưới màng nhện hoặcndưới màng cứng, tổ chức não và não thất ít gặp hơn nhưng nghiêm trọng hơn.

Xuất huyết nội sọ ở trẻ sơ sinh cần được đặt ra trong các trường hợp sau:

  • Ngưng thở

  • Động kinh

  • Li bì

  • Khám thần kinh bất thường

Trẻ sơ sinh như vậy cần được chỉ định thăm khám hình ảnh sọ não như một phần của đánh giá ban đầu. Siêu âm qua thóp là biện pháp thăm khám hầu như không có nguy cơ, không cần an thần cho trẻ, và có thể xác định được máu trong não thất hoặc nhu mô não. CT nhạy hơn so với siêu âm trong phát hiện các chảy máu nhỏ dưới nhện, dưới màng cứng hay tổn thương xương, nhưng CT cho trẻ sơ sinh phơi nhiễm với bức xạ ion hóa. MRI nhạy hơn và đặc hiệu hơn so với CT hoặc siêu âm trong phát hiện chảy máu nội sọ và chấn thương não, nhưng mất nhiều thời gian hơn để tạo ra hình ảnh so với chụp CT và có thể cần cho trẻ sơ sinh dùng an thần để hạn chế cử động và do đó cải thiện chất lượng hình ảnh. CT được thực hiện để nhanh chóng xác định xuất huyết nội sọ.

Điều trị xuất huyết trong sọ phụ thuộc vào vị trí và mức độ trầm trọng của xuất huyết nhưng thường chỉ hỗ trợ, bao gồm tiêm vitamin K nếu trước đó chưa được tiêm và điều chỉnh các rối loạn đông máu nếu có. Trong trường hợp xuất huyết đáng kể (ví dụ, xuất huyết dưới màng cứng), cần hội chẩn chuyên khoa phẫu thuật thần kinh để xác định nguy cơ can thiệp phẫu thuật.

Các thể xuất huyết nội sọ

Tụ máu ngoài màng cứng

Áp xe ngoài màng cứng là sự tích tụ mủ giữa màng cứng và hộp sọ. Bệnh hiếm gặp nhưng có thể xảy ra ở những bệnh nhân có vỡ xương sọ hoặc chảy máu sọ. Trẻ có thể biểu hiện triệu chứng như ngừng thở, co giật, triệu chứng thần kinh khu trú và các bất thường thần kinh khác kèm theo. Thóp trước phồng và tăng áp lực nội sọ.

Hầu hết tụ máu ngoài màng cứng có thể tự giới hạn và tự hết mà không cần can thiệp điều trị. Nếu cần can thiệp có thể là phẫu thuật hoặc can thiệp tối thiểu. Can thiệp tối thiếu được thực hiện bằng cách chọc hút kim dưới hướng dẫn siêu âm. Chỉ định trong trường hợp khối máu tụ lớn, tiến triển nhanh và không đáp ứng các biện pháp điều trị khác.

Nếu được chẩn đoán và điều trị kịp thời, kết quả thần kinh là tốt.

Xuất huyết não thất và/hoặc xuất huyết trong não

Xuất huyết não thất (IVH) và/hoặc xuất huyết trong nhu mô thường xảy ra trong 3 ngày đầu đời ở trẻ sơ sinh < 1500 gam và/hoặc < 32 tuần tuổi thai. Những thể xuất huyết này là thể chảy máu nội sọ nghiêm trọng nhất.

Xuất huyết thường xảy ra trẻ sơ sinh non tháng, thường là hai bên và xuất phát từ vùng mầm. Chất nền mầm sẽ hình thành sau 32 tuần tuổi thai, do đó IVH ở trẻ đủ tháng rất hiếm nhưng vẫn xảy ra.

IVH được phân loại như sau (1):

  • Độ I: Giới hạn ở vùng tế bào mầm

  • Độ II: Xuất huyết vào tâm thất mà không bị giãn

  • Độ III: IVH kèm theo giãn tâm thất

  • Độ IV: Tương tự như độ III cộng với xuất huyết nội nhu mô thứ phát

Hầu hết các trường hợp là chảy máu dưới màng mềm và trong não thất với lượng máu nhỏ. Trong trường hợp xuất huyết nặng (độ III và IV), có thể chảy máu vào nhu mô với lượng máu lớn ở bể lớn và bể đáy. Tình trạng thiếu oxy-thiếu máu thường đi kèm với xuất huyết trong não thất và xuất huyết dưới nhện. Hạ oxy máu-thiếu máu cục bộ làm tổn thương nội mô mao mạch, làm suy yếu cơ chế tự điều hòa của mạch máu não (đã bị tổn thương ở trẻ non tháng so với trẻ đủ tháng) (2) và có thể làm tăng lưu lượng máu não và áp lực tĩnh mạch, tất cả đều làm tăng khả năng xuất huyết. Hầu hết các trường hợp xuất huyết não thất đều không có triệu chứng, nhưng những trường hợp xuất huyết lớn hơn và những trường hợp xuất huyết ở trẻ bị não úng thủy kèm theo có thể gây ngưng thở, tím tái hoặc bất ổn tim mạch đột ngột.

Điều trị xuất huyết trong não thất hầu hết là điều trị hỗ trợ. Tuy nhiên, với trẻ có biến chứng não úng thủy sau xuất huyết não có thể cần can thiệp phẫu thuật dẫn lưu dịch não tủy bằng tạo đường hầm đặt dẫn lưu trong da. Phẫu thuật nội soi não thất cúng là một biện pháp can thiệp được lựa chọn ở một số bệnh nhân. Một số trẻ thần kinh có thể tiến triển biến chứng thân kinh nên việc theo dõi và chỉ định can thiệp kịp thời là vô cùng cần thiết.

Tiên lượng tốt ở trẻ sơ sinh có IVH nhỏ. Tuy nhiên, trẻ sơ sinh có IVH lớn có tiên lượng xấu, đặc biệt là nếu xuất huyết lan vào nhu mô. Những trẻ sinh sống thường để lại di chứng thần kinh. Trẻ sinh non có tiền sử IVH nặng có nguy cơ bị não úng thủy sau xuất huyết và phải được theo dõi chặt chẽ bằng khám thực thể, đo chu vi vòng đầu và siêu âm sọ theo chỉ định.

Tài liệu tham khảo về xuất huyết nội mô và/hoặc IVH

  1. 1. Papile LA, Burstein J, Burstein R, Koffler H: Incidence and evolution of subependymal and intraventricular hemorrhage: A study of infants with birth weights less than 1.500 gm. J Pediatr 92(4):529-534, 1978 doi: 10.1016/s0022-3476(78)80282-0

  2. 2. Gilard V, Tebani A, Bekri S, Marret S: Intraventricular Hemorrhage in Very Preterm Infants: A Comprehensive Review. J Clin Med 9(8):2447, 2020 doi: 10.3390/jcm9082447

Xuất huyết dưới nhện

Xuất huyết dưới nhện là tổn thương thường gặp nhất của xuất huyết trong sọ. Là tình trạng chảy máu giữa màng nhện và màng mềm. Trẻ sơ sinh thường có biểu hiện triệu chứng trong ngày thứ hai hoặc thứ ba sau sinh gồm: ngưng thở, co giật, li bì hoặc các triệu chứng thần kinh bất thường khác.

Điều trị xuất huyết dưới nhện được hỗ trợ bằng cách theo dõi thích hợp để phát hiện não úng thủy.

Tiên lượng cho xuất huyết dưới nhện thường tốt hầu như không có di chứng lâu dài đáng kể. Tuy nhiên, với xuất huyết lớn hoặc có viêm màng não kèm theo, có thể dẫn đến biến chứng não úng thủy sau đó.

Xuất huyết dưới màng cứng

Xuất huyết dưới màng cứng là tình trạng chảy máu giữa dưới màng và màng mềm. Nó là hậu quả của tổn thương các mạch máu vùng liềm não, lều tiểu não và tĩnh mạch não.

Xuất huyết nhỏ, dưới màng cứng có độ dày lên đến 3 mm là rất phổ biến, xảy ra ở gần một nửa số trẻ sơ sinh đủ tháng không triệu chứng đã chụp MRI lúc ≤ 72 giờ. Xuất huyết như vậy thường là lành tính.

Xuất huyết lớn dưới màng cứng có xu hướng xảy ra ở trẻ sơ sinh primiparas, ở trẻ sơ sinh lớn hoặc sau khi sinh khó – những tình trạng có thể tạo ra áp lực bất thường lên các mạch nội sọ. Trẻ sơ sinh có thể có triệu chứng: ngưng thở, co giật, đầu to nhanh, khám thần kinh bất thường với giảm trương lực cơ, phản xạ Moro kém hoặc xuất huyết võng mạc rộng.

Điều trị xuất huyết dưới màng cứng lớn là hỗ trợ, nhưng dẫn lưu máu tụ bằng phẫu thuật thần kinh có thể cần thiết đối với tình trạng chảy máu tiến triển nhanh do chèn ép các cấu trúc nội sọ quan trọng và các dấu hiệu lâm sàng và sinh hiệu xấu đi.

Tiên lượng cho xuất huyết dưới màng cứng lớn được bảo vệ.

Gãy xương ở trẻ sơ sinh

Gãy điểm giữa xương đòn, là tình trạng gãy xương thông thường nhất khi sinh xảy ra với trường hợp mắc vai và thậm chí với cả các trường hợp đẻ thường mà không hề có chấn thương khi sinh nào. Triệu chứng ban đầu trẻ thường hơi kích thích, không vận động tay bên tổn thương bao gồm cả vân động tự động hay khi khám phản xạ moro. Hầu hết gẫy xương đòn là "gãy cành tươi" và thường tự phục hồi nhanh chóng và hầu như không có biến chứng gì. Gãy xương này thường bị bỏ qua khi khám tại bệnh viện và thường được chẩn đoán khi đã canxi hóa hình thành tại chỗ gãy xương trong vòng một tuần. Quá trình lành chỗ gãy thường hoàn thành trong vòng một tháng và không có di chứng gì.

Không cần thiết phải điều trị đặc biệt, nhưng một số bác sĩ khuyên nên hạn chế vận động tay trong vòng một tuần bằng cách ghim ống tay áo của bên tay đó vào phía đối diện của áo sơ sinh. Thuốc giảm đau thường không cần thiết vì trẻ sơ sinh bị gãy xương đòn thường không có dấu hiệu đau.

Các xương hông và xương đùi có thể bị nứt trong những trường hợp đẻ khó. Hầu hết chúng là gẫy kiểu cành tươi, và có thể tự phục hồi một cách nhanh chóng, hầu như không có biến chứng thậm chí cả những ca có di lệch mực độ vừa. Một số xương dài có thể gẫy qua phần mấu chuyển nhưng hầu như tiên lượng là tốt.

Chấn thương mô mềm ở trẻ sơ sinh

Tất cả các mô mềm dễ bị tổn thương khi sinh nếu chúng đã là phần hiện diện hoặc điểm tựa cho các lực co bóp của tử cung. Phù nề, đỏ da thường đi kèm với các tổn thương phần mềm đặc biệt là vùng quanh mắt hoặc vùng mặt ở trẻ đẻ ngôi mặt hay tổn thương bầm tụ vùng sinh dục ở trẻ đẻ ngôi mông trong trường hợp đẻ ngôi ngược. Việc tan khối máu tụ sẽ giải phóng ra nhân Hem rồi thành bilirubin xảy ra trong khối máu tụ. Tăng nguy cơ tăng bilirubin máu nặng hơn ở trẻ sơ sinhtăng bilirubin máu sơ sinh cần điều trị chiếu đèn, một số hiếm có thể cần thay máu. Các điều trị khác không cần thiết.