Mặc dù trẻ em ≤ 5 tuổi có tỷ lệ chấn thương tủy sống thấp nhất, nhưng những chấn thương như vậy không phải là hiếm (1). Hầu hết các tổn thương cột sống ở trẻ em ≤ 15 tuổi xảy ra ở mức cột sống cổ (2).
Ở trẻ em ≤ 12 tuổi tại Hoa Kỳ, chấn thương cột sống cổ thường xảy ra ở trên C4 và thường do tai nạn xe cơ giới và ngã (1). Ở trẻ em > 12 tuổi, chấn thương ở C5 đến C7 phổ biến hơn và ngoài tai nạn xe cơ giới và té ngã, chấn thương thể thao và chấn thương do súng cũng đóng vai trò ngày càng tăng khi độ tuổi tăng lên. So với người lớn, trẻ em có các đặc điểm giải phẫu khác biệt (ví dụ: tỷ lệ kích thước đầu trên cơ thể lớn hơn, độ đàn hồi của bao dây chằng cột sống) khiến trẻ dễ bị di động quá mức của cột sống mà không có tổn thương xương rõ ràng.
Trẻ bị tổn thương tủy sống có thể có những triệu chứng thoáng qua như rối loạn cảm giác và yếu. Trẻ em cũng có thể đau nhói xuống xương sống hoặc chân tay. Các dấu hiệu thần kinh (như thiếu hụt thần kinh một phần, liệt hoàn toàn) có thể khởi phát chậm từ 30 phút đến 4 ngày sau chấn thương, khiến việc chẩn đoán ngay lập tức trở nên khó khăn.
Tổn thương tủy sống không có bằng chứng bất thường trên phim X-quang (SCIWORA) có liên quan đến kéo giãn tủy sống, đụng dập tủy sống, chấn động tủy và tổn thương mạch máu. Loại thương tích này xảy ra hầu như chỉ ở trẻ em và thường xảy ra ở cột sống cổ. Trong SCIWORA, bệnh nhân có các dấu hiệu về thần kinh gợi ý tổn thương tủy sống (ví dụ: dị cảm, yếu cơ) nhưng có liên kết giải phẫu bình thường và không thấy bất thường về xương trên các kiểm tra chẩn đoán hình ảnh (chụp X-quang, chụp CT và/hoặc chụp MRI).
Trẻ em bị bất động do SCIWORA hoặc các chấn thương tủy sống khác có nguy cơ bị các biến chứng do bất động, bao gồm loét do nằm lâu, biến chứng thuyên tắc huyết khối, xẹp phổi và viêm phổi, rối loạn phản xạ thần kinh thực vật gây tăng huyết áp và các biến chứng do bàng quang thần kinh, bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu trên hoặc dưới (thứ phát sau ống thông tiểu lưu lâu ngày), sỏi niệu quản, trào ngược bàng quang niệu quản và cuối cùng là bệnh thận mạn tính.
(Xem thêm Chấn thương cột sống.)
Tài liệu tham khảo
1. Selvarajah S, Schneider EB, Becker D, et al. The epidemiology of childhood and adolescent traumatic spinal cord injury in the United States: 2007-2010. J Neurotrauma. 2014;31(18):1548-1560. doi:10.1089/neu.2014.3332
2. Jazayeri SB, Kankam SB, Golestani A, et al. A systematic review and meta-analysis of the global epidemiology of pediatric traumatic spinal cord injuries. Eur J Pediatr. 2023;182(12):5245-5257. doi:10.1007/s00431-023-05185-9
Chẩn đoán tổn thương tủy sống ở trẻ em
Phiim chụp X-quang (phim nghiêng ngang bàn, phim thẳng và phim mỏm nha khi há miệng)
Thông thường CT, để phát hiện đối với tổn thương xương hoặc dây chằng
MRI để xác nhận vị trí và mức tổn thương trong tủy sống
Tổn thương tủy sống nên được nghi ngờ ở bất cứ trẻ em nào bị tai nạn xe máy, đã rơi xuống từ độ cao ≥ 3 m, hoặc đã bị đuối nước.
Chấn thương tủy sống không có bằng chứng bất thường về hình ảnh học (SCIWORA) được nghi ngờ ở trẻ em có các triệu chứng thoáng qua về rối loạn chức năng thần kinh hoặc đau nhói dọc sống lưng hoặc tứ chi và cơ chế chấn thương tương thích với chấn thương tủy sống, nhưng không quan sát thấy bất thường về xương trên phim chụp X-quang hoặc chụp CT (1). SCIWORA ban đầu được mô tả vào những năm 1980, khi MRI chưa phổ biến; thuật ngữ SCIWORA hiện ít được sử dụng hơn vì máy quét MRI dễ dàng có sẵn tại các bệnh viện ở Hoa Kỳ và thường có thể xác định các bất thường về hình ảnh là nguyên nhân gây ra (2, 3, 4).
Tùy thuộc vào nguồn lực chẩn đoán hình ảnh tại địa phương, quá trình chẩn đoán ảnh thường bắt đầu bằng chụp X-quang, bao gồm chế độ phim nghiêng, phim thằng và phim mỏm nha khi há miệng. Nếu nghi ngờ gãy xương, trật khớp hoặc bán trật khớp dựa trên kết quả chụp X-quang hoặc cơ chế chấn thương có nguy cơ rất cao, người ta thường tiến hành chụp CT. MRI thường được thực hiện khi có bất kỳ tình trạng nào sau đây:
Nghi ngờ chấn thương tủy sống dựa trên phim chụp X-quang hoặc phim chụp CT
Tổn thương tủy sống được gợi ý bởi những thiếu hụt về thần kinh khi khám
Chấn thương tủy sống được gợi ý bởi một tiền sử thậm chí thoáng qua dấu hiệu tổn thương thần kinh
Tài liệu tham khảo chẩn đoán
1. Pang D, Wilberger JE Jr. Spinal cord injury without radiographic abnormalities in children. J Neurosurg. 1982;57(1):114-129. doi:10.3171/jns.1982.57.1.0114
2. Mahajan P, Jaffe DM, Olsen CS, et al. Spinal cord injury without radiologic abnormality in children imaged with magnetic resonance imaging. J Trauma Acute Care Surg. 2013;75(5):843-847. doi:10.1097/TA.0b013e3182a74abd
3. Boese CK, Nerlich M, Klein SM, et al. Early magnetic resonance imaging in spinal cord injury without radiological abnormality in adults: a retrospective study. J Trauma Acute Care Surg. 2013;74(3):845-848. doi:10.1097/TA.0b013e31828272e9
4. Boese CK, Oppermann J, Siewe J, et al. Spinal cord injury without radiologic abnormality in children: a systematic review and meta-analysis. J Trauma Acute Care Surg. 2015;78(4):874-882. doi:10.1097/TA.0000000000000579
Điều trị chấn thương tủy sống ở trẻ em
Bất động
Duy trì oxy máu và tưới máu tủy sống
Chăm sóc hỗ trợ
Phẫu thuật cố định khi thích hợp
Chăm sóc dài hạn và phục hồi chức năng
Trẻ em bị chấn thương cột sống nên được chuyển tới trung tâm chấn thương nhi khoa.
Điều trị cấp tính tương tự như điều trị ở người lớn, với việc bất động và chú ý đến mức đầy đủ của oxy, thông khí và tuần hoàn (1). Phẫu thuật cố định ít được chỉ định ở trẻ em hơn người lớn bị chấn thương tủy sống; vì dây chằng tủy sống có xu hướng bị lỏng lẻo hơn ở những người bị chấn thương tủy sống mà không có bằng chứng bất thường về X-quang (SCIWORA) và không có gãy xương cũng như đứt dây chằng hoàn toàn, nên có thể không có cấu trúc mục tiêu phù hợp để cố định (2). Một ưu điểm khác của việc nẹp hỗ trợ là bảo vệ tính di động của cột sống bằng cách tránh phẫu thuật cố định cột sống; phẫu thuật cố định cột sống làm tăng nguy cơ trượt đốt sống về lâu dài.
Trong lịch sử, corticosteroid liều cao đã được sử dụng theo nhiều lịch và phác đồ dùng thuốc khác nhau, nhưng nhiều thử nghiệm lâm sàng ở người lớn đã không chứng minh được bất kỳ lợi ích lâm sàng bổ sung nào nhưng lại cho thấy nguy cơ nhiễm trùng vết thương, thuyên tắc động mạch phổi, nhiễm trùng huyết và tử vong tăng lên (1). Do đó, đối với trẻ em bị chấn thương tủy sống, các trung tâm ở Hoa Kỳ có xu hướng tránh sử dụng corticosteroid trong thời gian dài, mặc dù một số bác sĩ lâm sàng chỉ sử dụng các liệu trình ngắn hạn steroid liều cao trong bối cảnh chu phẫu (3).
Các phương pháp điều trị dài hạn cho chấn thương tủy sống ở trẻ em tương tự như phương pháp điều trị chấn thương tủy sống ở người lớn, tập trung vào cả phục hồi chức năng vật lý chuyên sâu cho các chi bị ảnh hưởng thần kinh và hỗ trợ y tế cho nhiều biến chứng y khoa phổ biến xảy ra do bất động kéo dài hoặc do yếu. Sự phục hồi chức năng cần toàn diện bao gồm vật lý trị liệu để tập luyện dáng đi và sức mạnh của chi dưới, các liệu pháp trị liệu nghề nghiệp cho các tổn thương cho các tổn thương cột sống cổ ảnh hưởng đến chức năng vận động của chi trên có thể dẫn đến sự co cứng, và thậm chí các nhà trị liệu phát âm để giúp giải quyết các vấn đề rắc rối về nuốt và tiết dịch tiết ra có ảnh hưởng bởi chấn thương cột sống cổ cao. Chăm sóc y tế định kỳ và thăm nom là cần thiết cho tổn thương tủy nặng không thể đi lại được do nguy cơ cao phát sinh biến chứng do bất động.
Tiên lượng có liên quan trực tiếp đến chức năng thần kinh ban đầu sau khi bị thương. Trẻ em đạt được kết quả thần kinh tốt hơn so với bệnh nhân người lớn bị chấn thương tủy sống (4, 5).
Tài liệu tham khảo về điều trị
1. Walters BC, Hadley MN, Hurlbert RJ, et al. Guidelines for the management of acute cervical spine and spinal cord injuries: 2013. update. Neurosurgery. 2013;60(CN_suppl_1):82-91. doi:10.1227/01.neu.0000430319.32247.7f
2. Atesok K, Tanaka N, O'Brien A, et al. Posttraumatic Spinal Cord Injury without Radiographic Abnormality. Adv Orthop. 2018;2018:7060654. Xuất bản ngày 4 tháng 1 năm 2018. doi:10.1155/2018/7060654
3. CreveCoeur TS, Alexiades NG, Bonfield CM, et al. Building consensus for the medical management of children with moderate and severe acute spinal cord injury: a modified Delphi study. J Neurosurg Spine. Xuất bản trực tuyến ngày 17 tháng 3 năm 2023. doi:10.3171/2023.1.SPINE221188
4. Pang D, Pollack IF. Spinal cord injury without radiographic abnormality in children—the SCIWORA syndrome. J Trauma. 29:654–664, 1989. doi: 10.1097/00005373-198905000-00021
5.Wang MY, Hoh DJ, Leary SP, et al. High rates of neurological improvement following severe traumatic pediatric spinal cord injury. Spine. 29:1493–1497, 2004. doi: 10.1097/01.BRS.0000129026.03194.0
Những điểm chính
Hầu hết các chấn thương tủy sống ở trẻ em xảy ra ở cổ.
Các triệu chứng và dấu hiệu thần kinh có thể xuất hiện muộn từ 30 phút đến 4 ngày sau chấn thương.
Trẻ em có thể bị tổn thương tủy sống mà không có bằng chứng về bất thường X-quang (SCIWORA).
SCIWORA nên được nghi ngờ với các triệu chứng thậm chí thoáng qua của rối loạn chức năng thần kinh hoặc các cơn đau lan tỏa dọc cột sống hoặc tứ chi.
Thực hiện chụp MRI cho tất cả bệnh nhân có triệu chứng thần kinh, khiếm khuyết thần kinh khi khám hoặc chấn thương cột sống được phát hiện trên các kiểm tra chẩn đoán hình ảnh khác.
Phẫu thuật ổn định thường ít được chỉ định ở trẻ em hơn người lớn bị tổn thương tủy sống.
