Rối loạn lưỡng cực thường bắt đầu ở tuổi vị thành niên, 20, hoặc 30 (xem thêm Rối loạn lưỡng cực ở trẻ em và thanh niên Rối loạn lưỡng cực ở trẻ em và thanh thiếu niên Rối loạn lưỡng cực được đặc trưng bởi các giai đoạn hưng cảm, trầm cảm, và tâm trạng bình thường, mỗi lần kéo dài hàng tuần cho đến vài tháng một lần. Chẩn đoán dựa trên các tiêu chí lâm sàng... đọc thêm ). Tỷ lệ hiện hành suốt đời là khoảng 4%.
Rối loạn lưỡng cực được phân loại thành
Rối loạn lưỡng cực I: Được xác định bởi sự hiện diện của ít nhất một giai đoạn hưng cảm đầy đủ (gây ảnh hưởng các chức năng xã hội và chức năng nghề nghiệp bình thường) và thường là những giai đoạn trầm cảm. Tỷ lệ mắc bệnh ở nam và nữ ngang nhau.
Rối loạn lưỡng cực II: Được xác định bởi sự có mặt của các giai đoạn trầm cảm chủ yếu với ít nhất một giai đoạn hưng cảm nhẹ nhưng không có các giai đoạn hưng cảm đầy đủ. Tỷ lệ mắc bệnh có phần cao hơn đối với nữ giới.
Rối loạn lưỡng cực không biệt định: Các rối loạn với các đặc tính lưỡng cực rõ ràng không đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể cho các rối loạn lưỡng cực khác
Trong rối loạn khí sắc chu kỳ Rối loạn khí sắc chu kỳ Rối loạn khí sắc chu kỳ được đặc trưng bởi giai đoạn trầm cảm nhẹ và trầm cảm nhẹ mà kéo dài một vài ngày, theo sau một giai đoạn không thường xuyên, và ít nghiêm trọng hơn so với rối loạn lưỡng... đọc thêm , bệnh nhân có thời gian kéo dài (> 2 năm) bao gồm cả giai đoạn hưng cảm và trầm cảm; tuy nhiên, các giai đoạn này không đáp ứng các tiêu chí cụ thể cho rối loạn lưỡng cực hoặc rối loạn trầm cảm nặng.
(Xem thêm Tổng quan về Rối loạn tâm trạng Tổng quan về Rối loạn khí sắc Các rối loạn khí sắc là các rối loạn cảm xúc bao gồm một quãng thời gian kéo dài buồn chán quá mức, vui quá mức, hoặc cả hai. Rối loạn khí sắc có thể xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên (xem... đọc thêm .)
Căn nguyên của rối loạn lưỡng cực
Nguyên nhân chính xác của rối loạn lưỡng cực là không rõ. Di truyền có vai trò quan trọng. Cũng có bằng chứng về sự rối loạn điều hòa các chất dẫn truyền thần kinhserotonin và norepinephrin và dopamine.
Có thể có những yếu tố tâm lý xã hội. Các sự kiện căng thẳng cuộc sống thường liên quan đến sự phát triển ban đầu của các triệu chứng và sau đó trầm trọng, mặc dù nguyên nhân và kết quả chưa được thiết lập.
Một số loại thuốc có thể khởi phát bệnh trầm trọng ở một số bệnh nhân rối loạn lưỡng cực; những loại thuốc này bao gồm
Các thuốc cường giao cảm (ví dụ, cocain Cocaine Cocaine là một loại thuốc có tác dụng giống giao cảm với kích thích hệ thần kinh trung ương và tính chất sảng khoái. Liều cao có thể gây hoảng loạn, triệu chứng giống tâm thần phân liệt, co... đọc thêm , amphetamin Amphetamine Amphetamines là những thuốc kích thích thần kinh trung ương và gây hưng phấn các triệu chứng bao gồm mê sảng, cao huyết áp, động kinh và tăng thân nhiệt (có thể gây suy gan và suy thận). Điều... đọc thêm )
Một số thuốc chống trầm cảm Điều trị trầm cảm bằng thuốc Một số loại thuốc và thuốc có thể được sử dụng để điều trị trầm cảm: Chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) Thuốc điều hòa serotonin (thuốc chẹn 5-HT2) Ức chế tái hấp thu Serotonin-norepinephrine... đọc thêm (ví dụ, thuốc ba vòng, thuốc ức chế tái hấp thu noradrenergic)
Triệu chứng và dấu hiệu của rối loạn lưỡng cực
Rối loạn lưỡng cực bắt đầu với một giai đoạn cấp tính các triệu chứng, theo sau là một chu kỳ lặp đi lặp lại của sự thuyên giảm và tái phát. Sự thuyên giảm thường hoàn toàn, nhưng nhiều bệnh nhân có các triệu chứng tồn dư, và một số thì khả năng làm việc ở nơi làm việc bị suy giảm trầm trọng. Các đợt tái phát là những giai đoạn riêng biệt của các triệu chứng cường độ cao hơn, đó là hưng cảm, trầm cảm, trầm cảm nhẹ, hoặc hỗn hợp các tính trạng trầm cảm và hưng cảm.
Các đợt tập kéo dài từ vài tuần đến 3 đến 6 tháng; giai đoạn trầm cảm thường kéo dài hơn giai đoạn hưng cảm hoặc trầm cảm.
Các chu kỳ – thời gian từ khi khởi phát của một giai đoạn đến thời điểm khởi phát giai đoạn tiếp theo - khác nhau giữa các bệnh nhân. Một số bệnh nhân có giai đoạn không thường xuyên, có lẽ chỉ một vài giai đoạn trong suốt cuộc đời, trong khi một số khác lại có các dạng chu kỳ nhanh (thường được định nghĩa là ≥ 4 giai đoạn/năm). Chỉ có một ít bệnh nhân thay đổi luân phiên giữa hưng cảm và trầm cảm trong mỗi chu kỳ; trong hầu hết, một cực hay cực khác chiếm nổi trội.
Bệnh nhân có thể toan tự sát hoặc tự sát Hành vi tự sát Tự sát là cái chết do một hành động cố ý tự làm hại bản thân được thiết kế để gây chết người. Hành vi tự sát bao gồm một loạt các hành vi từ cố gắng tự sát và các hành vi chuẩn bị cho đến tự... đọc thêm thành công. Tỷ lệ tự sát mắc phải suốt đời ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực được ước tính gấp ít nhất 15 lần so với dân số nói chung.
Hưng cảm
Một giai đoạn hưng cảm được định nghĩa là ≥ 1 tuần có khí sắc tăng, mở rộng hoặc dễ bị kích thích liên tục và tăng liên tục hoạt động có mục đích hoặc tăng năng lượng đáng chú ý cộng với ≥ 3 triệu chứng:
Tăng tính tự trọng bản thân hoặc phóng đại
Giảm nhu cầu ngủ
Nói chuyện nhiều hơn bình thường
Tư duy phi tán hoặc tư duy dồn dập
Tính dễ bị phân tán tập trung
Tăng các hoạt động có mục đích
Tham gia quá nhiều vào các hoạt động có rủi ro cao (ví dụ, mua sắm nhiều, đầu tư kinh doanh dại dột)
Các bệnh nhân hưng cảm có thể là tham gia vào nhiều hoạt động vui vẻ, có nguy cơ cao một cách không mệt mỏi, quá mức, và xung động (ví dụ, đánh bạc, thể thao nguy hiểm, hành động phô trương tình dục) mà không cần phải hiểu rõ những nguy hại có thể xảy ra. Triệu chứng trầm trọng đến nỗi họ không thể hoạt động được các vai trò chính (nghề nghiệp, trường học, trông nhà). Những đầu tư không khôn ngoan, chi tiêu và các lựa chọn cá nhân khác có thể có những hậu quả không thể khắc phục được.
Bệnh nhân trong một giai đoạn hưng cảm có thể ăn mặc màu mè rực rõ và thường nói với tốc độ nhanh, không thể dừng. Bệnh nhân có thể tạo ra các mối liên quan (những ý nghĩ mới được khởi phát bởi bằng âm thanh thay vì ý nghĩa của từ). Dễ phân tâm, bệnh nhân có thể liên tục chuyển từ một chủ đề này sang chủ đề khác. Tuy nhiên, họ có xu hướng tin rằng họ đang ở trạng thái tinh thần tốt nhất của họ.
Thiếu sự thấu hiểu và tăng khả năng hoạt động thường dẫn đến hành vi xâm phạm và có thể là một sự kết hợp nguy hiểm. Sự bất hòa giữa các cá nhân và có thể khiến bệnh nhân cảm thấy họ đang bị đối xử hoặc bị ngược đãi một cách bất công. Do đó, bệnh nhân có thể trở nên nguy hiểm cho bản thân hoặc cho người khác. Tăng hoạt động tâm thần được bệnh nhân cảm nhận tư duy dồn dập và được quan sát là tư duy phi tán qua đánh giá của bác sĩ.
Hưng cảm loạn thần là một biểu hiện nặng hơn, với những triệu chứng loạn thần mà có thể khó phân biệt với tâm thần phân liệt Tâm thần phân liệt Tâm thần phân liệt được đặc trưng bởi loạn thần (mất liên hệ với thực tại), ảo giác (các tri giác sai), hoang tưởng (các niềm tin sai lạc), tư duy và ngôn ngữ thiếu tổ chức, cảm xúc thờ ơ vô... đọc thêm . Bệnh nhân có những hoang tưởng phóng đại hoặc bị theo dõi (ví dụ, về việc là Chúa Giêsu hoặc bị FBI theo dõi), thỉnh thoảng có ảo giác. Mức độ hoạt động tăng rõ rệt; bệnh nhân có thể phóng xe nhanh và la hét, chửi thề hay hát hò. Tăng tình trạng thiếu ổn định cảm xúc, thường tăng tính dễ bị kích thích. Mê sảng (hưng cảm mê sảng) có thể xuất hiện, với sự mất mát hoàn toàn của tư duy và hành vi.
Hưng cảm nhẹ
Một giai đoạn hưng cảm nhẹ là một biến thể ít nặng nề hơn của hưng cảm liên quan đến một giai đoạn riêng biệt kéo dài ≥ 4 ngày với hành vi khác biệt rõ rệt bản thân bệnh nhân lúc bình thường không trầm cảm và bao gồm ≥ 3 trong số các triệu chứng bổ sung được liệt kê ở trên dưới hưng cảm.
Trong giai đoạn hưng cảm nhẹ, khí sắc tươi sáng, nhu cầu ngủ giảm khi năng lượng tăng lên đáng kể, và tâm thần vận động tăng nhanh. Đối với một số bệnh nhân, giai đoạn hưng cảm nhẹ được thích nghi bởi vì chúng tạo ra nhiều năng lượng, tăng tính sáng tạo, sự tự tin, và chức năng xã hội siêu thường. Nhiều người không muốn rời khỏi trạng thái vui tươi, hưng phấn. Một số hoạt động khá tốt, và hoạt động không bị suy giảm đáng kể. Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân, hưng cảm nhẹ biểu hiện như sự phân tán, dễ bị cáu gắt, và khí sắc bất ổn định, mà bệnh nhân và những người khác thấy không thích thú tình trạng đó.
Trầm cảm
Một giai đoạn trầm cảm có đặc điểm điển hình của trầm cảm nặng Trầm cảm điển hình (rối loạn đơn cực) Các rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi buồn trầm trọng hoặc dai dẳng đủ để ảnh hưởng vào hoạt động chức năng và thường là do giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong các hoạt động. Nguyên nhân... đọc thêm ; giai đoạn phải bao gồm ≥ 5 trong số những điều sau đây trong cùng thời gian 2 tuần, và một trong số đó phải là khí sắc trầm hoặc mất quan tâm hoặc thích thú và, ngoại trừ ý định hoặc ý định tự tử, tất cả các triệu chứng phải xuất hiện gần như hàng ngày:
Khí sắc trầm hầu hết trong ngày
Giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong tất cả hoặc gần như tất cả các hoạt động trong hầu hết thời gian trong ngày
Tăng cân đáng kể (>5%) hoặc giảm cân hoặc tăng khẩu vị
Mất ngủ (thường mất ngủ kiểu tỉnh giấc giữa đêm) hoặc chứng ngủ nhiều
Kích động hoặc chậm chạp tâm thần vận động được quan sát bởi người khác của người khác (không phải tự nhận xét)
Mệt mỏi hoặc mất năng lượng
Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi quá mức hoặc không thích hợp
Suy giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung hoặc do dự thiếu quyết đính
Những suy nghĩ liên tục về cái chết hoặc tự sát, một nỗ lực tự sát, hay một kế hoạch tự sát cụ thể
Các đặc điểm loạn thần thường phổ biến ở trầm cảm lưỡng cực hơn trầm cảm đơn cực.
Các đặc điểm hỗn hợp
Một giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ được xác định là có đặc điểm hỗn hợp nếu ≥ 3 triệu chứng trầm cảm có mặt trong hầu hết các ngày của giai đoạn. Tình trạng này thường rất khó chẩn đoán và có thể chuyển sang trạng thái chu kỳ liên tục; sau đó tiên lượng xấu hơn so với ở trạng thái hưng cảm hay hưng cảm nhẹ.
Nguy cơ tự sát trong các giai đoạn hỗn hợp đặc biệt cao.
Chẩn đoán rối loạn lưỡng cực
Tiêu chuẩn lâm sàng (Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần, Ấn bản lần thứ Năm)
Thyroxin (T4) và mức TSH để loại trừ cường giáp
Loại trừ lạm dụng thuốc kích thích trên lâm sàng hoặc xét nghiệm máu hoặc nước tiểu
Chẩn đoán rối loạn lưỡng cực được dựa trên việc xác định các triệu chứng của chứng hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ như được mô tả ở trên, cộng với một tiền sử của sự thuyên giảm và tái phát. Chẩn đoán rối loạn lưỡng cực I cần phải có các triệu chứng đủ nghiêm trọng để làm giảm đáng kể chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp hoặc phải nhập viện để ngăn ngừa nguy hại cho bản thân hoặc người khác.
Một số bệnh nhân có triệu chứng trầm cảm có thể đã có trải nghiệm trước đây hưng cảm nhẹ hoặc hưng cảm nhưng không phản hồi về điều đó, trừ khi họ được đặt câu hỏi cụ thể. Đặt câu hỏi có kĩ năng có thể cho thấy các dấu hiệu hiện diện bệnh (ví dụ như chi tiêu quá mức, xung động phô trương tình dục, lạm dụng chất kích thích), mặc dù các thông tin đó có nhiều khả năng được cung cấp bởi người thân. Bảng kê có cấu trúc như Bảng câu hỏi về Rối loạn tâm trạng có thể có ích. Tất cả bệnh nhân phải được hỏi nhẹ nhàng nhưng trực tiếp về ý tưởng tự sát, kế hoạch, hoặc hành vi.
Triệu chứng tương tự hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ cấp tính có thể xảy ra do sử dụng chất kích thích hoặc các rối loạn thể chất như cường giáp Cường giáp Cường giáp được đặc trưng bởi tăng chuyển hóa và tăng nồng độ các hormone giáp tự do. Các triệu chứng bao gồm đánh trống ngực, mệt mỏi, giảm cân, không chịu được nhiệt, lo lắng và run. Chẩn... đọc thêm hoặc là u tủy thượng thận u tuỷ thượng thận. U tủy thượng thận là một khối u giải phóng catecholamine của các tế bào ưa crôm nằm ở thượng thận. Nó gây tăng huyết áp dai dẳng hoặc tăng huyết áp kịch phát. Chẩn đoán là bằng cách đo các sản... đọc thêm . Bệnh nhân bị cường giáp thường có các triệu chứng và dấu hiệu thể chất khác, nhưng xét nghiệm chức năng tuyến giáp (T4 và TSH) là một xét nghiệm đánh giá hợp lý cho bệnh nhân mới. Bệnh nhân bị u tế bào ưa crôm có tăng huyết áp từng cơn hoặc kéo dài rõ rệt; nếu không có tăng huyết áp, không có chỉ định xét nghiệm để xác định u tế bào ưa crôm. Các rối loạn khác thường ít gây triệu chứng hưng cảm, nhưng các triệu chứng trầm cảm có thể xảy ra trong một số rối loạn (xem bảng: Một vài nguyên nhân gây trầm cảm và hưng cảm Một số nguyên nhân của triệu chứng trầm cảm và hưng cảm ).
Việc xem xét việc sử dụng chất gây nghiện (đặc biệt là amphetamin Amphetamine Amphetamines là những thuốc kích thích thần kinh trung ương và gây hưng phấn các triệu chứng bao gồm mê sảng, cao huyết áp, động kinh và tăng thân nhiệt (có thể gây suy gan và suy thận). Điều... đọc thêm và cocain Cocaine Cocaine là một loại thuốc có tác dụng giống giao cảm với kích thích hệ thần kinh trung ương và tính chất sảng khoái. Liều cao có thể gây hoảng loạn, triệu chứng giống tâm thần phân liệt, co... đọc thêm ) và xét nghiệm chất trong máu hoặc nước tiểu có thể giúp xác định căn nguyên từ chất. Tuy nhiên, bởi vì sử dụng chất có thể thuần túy gây khởi phát một giai đoạn ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực, việc tìm kiếm các triệu chứng (hưng cảm hoặc trầm cảm) không liên quan đến sử dụng ma túy là rất quan trọng.
Một số bệnh nhân bị rối loạn tâm thần phân liệt Rối loạn phân liệt cảm xúc Rối loạn phân liệt được đặc trưng bởi các triệu chứng tâm thần, triệu chứng phân liệt khác, và các triệu chứng tâm trạng đáng kể. Rối loạn này được phân biệt với tâm thần phân liệt bởi sự xuất... đọc thêm có các triệu chứng hưng cảm, nhưng những bệnh nhân này có các biểu hiện loạn thần có thể kéo dài ngoài các giai đoạn tâm trạng bất thường.
Bệnh nhân rối loạn lưỡng cực cũng có thể bị rối loạn lo âu (ví dụ, ám ảnh sợ xã hội Rối loạn lo âu xã hội Ám ảnh sợ xã hội là lo sợ và lo âu về việc bị tiếp xúc với các tình huống xã hội hoặc trình diễn nào đó. Những tình huống này bị né tránh hoặc chịu đựng với lo âu đáng kể. Ám ảnh sợ là một loại... đọc thêm , các cơn hoảng sợ Cơn hoảng sợ và rối loạn hoảng sợ Một cơn hoảng sợ là sự khởi phát đột ngột của một giai đoạn ngắn, rời rạc với các khó chịu căng thẳng, lo âu, hoặc sợ hãi kèm theo các triệu chứng cơ thể và/hoặc triệu chứng nhận thức. Rối loạn... đọc thêm , rối loạn ám ảnh nghi thức Rối loạn ám ảnh nghi thức (OCD) Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) đặc trưng bởi những suy nghĩ, những thôi thúc hoặc những hình ảnh (ám ảnh) lặp đi lặp lại, dai dẳng, không mong muốn và xâm nhập và/hoặc bởi các hành vi lặp đi... đọc thêm ), có thể gây nhầm lẫn cho chẩn đoán.
Điều trị rối loạn lưỡng cực
(Xem thêm Điều trị bằng thuốc rối loạn lưỡng cực Điều trị bằng thuốc rối loạn lưỡng cực Lựa chọn điều trị rối loạn lưỡng cực có thể là khó khăn bởi vì tất cả các thuốc có tác dụng phụ đáng kể, tương tác thuốc là phổ biến và không có thuốc nào có hiệu quả toàn diện. Sự lựa chọn... đọc thêm .)
Các thuốc chỉnh khí sắc (ví dụ lithium, một số thuốc chống co giật), thuốc chống loạn thần thế hệ 2, hoặc cả hai
Hỗ trợ và trị liệu tâm lý
Điều trị rối loạn lưỡng cực thường có 3 pha:
Cấp tính: Để ổn định và kiểm soát biểu hiện ban đầu, đôi khi là những tình trạng nghiêm trọng
Tiếp tục: Để đạt được sự thuyên giảm hoàn toàn
Duy trì hoặc dự phòng: Giữ bệnh nhân trong trạng thái thuyên giảm
Mặc dù hầu hết các bệnh nhân hưng cảm nhẹ có thể được điều trị như bệnh nhân ngoại trú, nhưng tình trạng hưng cảm nghiêm trọng hoặc trầm cảm thường đòi hỏi quản lý nội trú.
Điều trị bằng thuốc cho rối loạn lưỡng cực
Thuốc cho rối loạn lưỡng cực Điều trị bằng thuốc rối loạn lưỡng cực Lựa chọn điều trị rối loạn lưỡng cực có thể là khó khăn bởi vì tất cả các thuốc có tác dụng phụ đáng kể, tương tác thuốc là phổ biến và không có thuốc nào có hiệu quả toàn diện. Sự lựa chọn... đọc thêm bao gồm
Thuốc chỉnh khí sắc: Lithium và thuốc chống động kinh, đặc biệt là valproat, carbamazepin, và lamotrigin
Thuốc chống loạn thần thế hệ thứ 2 Các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai Thuốc chống loạn thần được chia thành các thuốc chống loạn thần điển hình và các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai (SGA) dựa trên tính ái lực và hoạt tính với các thụ thể của chất dẫn truyền... đọc thêm : Aripiprazole, lurasidone, olanzapine, quetiapine, risperidone, ziprasidone và cariprazine.
Các loại thuốc này được sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp với tất cả các pha điều trị, mặc dù ở liều lượng khác nhau.
Lựa chọn điều trị rối loạn lưỡng cực Điều trị bằng thuốc rối loạn lưỡng cực Lựa chọn điều trị rối loạn lưỡng cực có thể là khó khăn bởi vì tất cả các thuốc có tác dụng phụ đáng kể, tương tác thuốc là phổ biến và không có thuốc nào có hiệu quả toàn diện. Sự lựa chọn... đọc thêm có thể là khó khăn bởi vì tất cả các thuốc có tác dụng phụ đáng kể, tương tác thuốc là phổ biến và không có thuốc nào có hiệu quả toàn diện. Sự lựa chọn nên dựa trên những gì đã có hiệu quả và được dung nạp tốt ở một bệnh nhân nhất định. Nếu bệnh nhân trước đây chưa được sử dụng thuốc để điều trị rối loạn lưỡng cực (hoặc không rõ tiền sử dùng thuốc), thì sự lựa chọn dựa trên tiền sử bệnh của bệnh nhân (xem xét các tác dụng phụ của thuốc ổn định tâm trạng cụ thể) và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng.
Thuốc chống trầm cảm Điều trị trầm cảm bằng thuốc Một số loại thuốc và thuốc có thể được sử dụng để điều trị trầm cảm: Chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) Thuốc điều hòa serotonin (thuốc chẹn 5-HT2) Ức chế tái hấp thu Serotonin-norepinephrine... đọc thêm cụ thể (ví dụ, chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc [SSRI]) đôi khi được bổ sung điều trị cho trầm cảm nặng, nhưng hiệu quả của chúng còn tranh cãi; chúng không được khuyến cáo là liệu pháp duy nhất cho các giai đoạn trầm cảm. Truyền ketamine cũng đã được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị trầm cảm lưỡng cực nặng.
Các phương pháp điều trị khác
Liệu pháp sốc điện Liệu pháp trị liệu bằng sốc điện (ECT) Các rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi buồn trầm trọng hoặc dai dẳng đủ để ảnh hưởng vào hoạt động chức năng và thường là do giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong các hoạt động. Nguyên nhân... đọc thêm (ECT) đôi khi được sử dụng để điều trị trầm cảm kháng trị và cũng có hiệu quả đối với hưng cảm.
Trị liệu ánh sáng Quang trị liệu Các rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi buồn trầm trọng hoặc dai dẳng đủ để ảnh hưởng vào hoạt động chức năng và thường là do giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong các hoạt động. Nguyên nhân... đọc thêm có thể hữu ích trong việc điều trị các triệu chứng trầm cảm theo mùa (với trầm cảm mùa thu-đông và hưng cảm xuân-hè) hoặc rối loạn lưỡng cực I hoặc lưỡng cực II không theo mùa. Nó được sử dụng hữu ích nhất như điều trị bổ sung.
Kích thích từ trường xuyên sọ, đôi khi được sử dụng để điều trị trầm cảm nặng, kháng thuốc, cũng đã chứng minh được hiệu quả trong chứng trầm cảm lưỡng cực.
Giáo dục và trị liệu tâm lý
Tận dụng sự ủng hộ của người thân là điều thiết yếu để dự phòng ngăn ngừa những giai đoạn chủ yếu.
Trị liệu nhóm thường được khuyên dùng cho bệnh nhân và bạn đời (bạn tình); ở đó, họ tìm hiểu về rối loạn lưỡng cực, di chứng xã hội của nó, và vai trò trung tâm của thuốc chỉnh khí sắc trong điều trị.
Trị liệu cá nhân có thể giúp bệnh nhân đối phó tốt hơn với các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày và điều chỉnh theo cách mới để tự xác định bản thân.
Những bệnh nhân, đặc biệt là những người có rối loạn lưỡng cực II, có thể không tuân thủ các phác đồ điều trị bằng thuốc chỉnh khí sắc bởi vì họ tin rằng những thuốc này làm cho họ ít cảnh giác và sáng tạo. Bác sĩ có thể giải thích rằng: sự giảm sáng tạo thì không bình thường một cách tương đối nhưng thuốc chỉnh khí sắc thường sẽ đem lại nhiều cơ hội thực hiện hoạt động giữa các cá nhân, học thuật, chuyên môn và nghệ thuật.
Bệnh nhân nên được tư vấn để tránh các loại thuốc kích thích và rượu, để giảm thiểu tình trạng thiếu ngủ và nhận diện các dấu hiệu tái phát sớm.
Nếu bệnh nhân có khuynh hướng tiêu xài tài chính quá mức, tài chính nên được chuyển sang một thành viên đáng tin cậy trong gia đình. Bệnh nhân có khuynh hướng lạm dụng tình dục thì nên được cung cấp thông tin về các hậu quả về hôn nhân (ví dụ ly dị) và nguy cơ nhiễm bệnh lây truyền, đặc biệt là AIDS.
Các nhóm hỗ trợ (ví dụ, Liên minh Hỗ trợ Bệnh nhân bị Bệnh lưỡng cực và Trầm cảm [DBSA] ) có thể giúp bệnh nhân bằng cách cung cấp một diễn đàn để chia sẻ những kinh nghiệm và cảm xúc chung của họ.
Những điểm chính
Rối loạn lưỡng cực là một tình trạng chu kỳ liên quan đến các giai đoạn của chứng hưng cảm có hoặc không có trầm cảm (lưỡng cực 1) hoặc hưng cảm nhẹ cộng với trầm cảm (lưỡng cực 2).
Rối loạn lưỡng cực làm giảm một cách rõ rệt chức năng trong công việc và tương tác với xã hội, và nguy cơ tự tử là rất lớn; tuy nhiên, các trạng thái hưng cảm mức độ nhẹ (hưng cảm nhẹ) đôi khi thích nghi bởi vì chúng có thể tạo ra năng lượng cao, tính sáng tạo, sự tự tin, và chức năng xã hội siêu thường.
Độ dài và tần suất của chu kỳ thay đổi giữa các bệnh nhân; một số bệnh nhân chỉ có một vài giai đoạn trong suốt cuộc đời, trong khi một số khác lại có ≥ 4 giai đoạn/năm (các hình thức chu kỳ nhanh).
Chỉ có một vài bệnh nhân thay đổi luân phiên giữa hưng cảm và trầm cảm trong mỗi chu kỳ; trong hầu hết các chu kỳ, một cực thường chiếm ưu thế hơn cực kia.
Chẩn đoán dựa trên tiêu chuẩn lâm sàng, nhưng lạm dụng thuốc kích thích và các rối loạn cơ thể như cường giáp hoặc u tuyến thượng thận phải được loại trừ bằng cách kiểm tra và làm xét nghiệm.
Điều trị phụ thuộc vào biểu hiện và mức độ nghiêm trọng của chúng nhưng thường được sử dụng thuốc chỉnh khí sắc (ví dụ, lithium, valproat, carbamazepin, lamotrigin) và/hoặc thuốc chống loạn thần thế hệ thứ 2 (ví dụ, aripiprazol, lurasidon, olanzapin, quetiapin, risperidon, ziprasidon).