Đau mạn tính lan rộng (có tính trung ương)

(đau thần kinh trung ương)

TheoMeredith Barad, MD, Stanford Health Care;
Anuj Aggarwal, MD, Stanford University School of Medicine
Xem xét bởiMichael C. Levin, MD, College of Medicine, University of Saskatchewan
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 4 2025 | đã sửa đổi Thg 8 2025
v1033722_vi

Đau lan rộng mạn tính (có tính trung ương) (hoặc đau thần kinh trung ương) là đau kéo dài hoặc tái phát trong > 3 tháng, kéo dài > 1 tháng sau khi chấn thương mô cấp tính đã khỏi hoặc đi kèm với tổn thương không lành. Nguyên nhân bao gồm các bệnh lý mạn tính (như ung thư, viêm khớp, đái tháo đường), chấn thương (ví dụ: thoát vị đĩa đệm, rách dây chằng) và nhiều căn nguyên gây bệnh lý đau khác (ví dụ đau nguyên nhân thần kinh, đau cơ xơ hóa, đau đầu mạn tính). Có nhiều loại thuốc và phương pháp điều trị tâm lý được sử dụng.

(Xem thêm Đau cơ xơ hóaTổng quan về đau)

Các rối loạn đau kéo dài, chưa được giải quyết có thể được phân loại theo nguyên nhân (ví dụ: ung thư, viêm khớp dạng thấp, thoát vị đĩa đệm) hoặc theo cơ chế bệnh sinh (ví dụ: đau do cảm thụ đau, đau thần kinh, đau thần kinh trung ương). Hầu hết các tình trạng đau mạn tính có thể là biểu hiện của trạng thái hỗn hợp. Ví dụ: chấn thương dây thần kinh ngoại biên gây đau thần kinh có thể dẫn đến những thay đổi ở hệ thần kinh trung ương gây ra đau thần kinh trung ương. Ngoài ra, chấn thương, ngay cả khi nhẹ, cũng có thể dẫn đến những thay đổi lâu dài (nhạy cảm) trong hệ thần kinh - từ các thụ thể ngoại vi đến vỏ não – có thể gây đau dai dẳng khi không có kích thích cảm thụ đau liên tục. Với tình trạng nhạy cảm và đau thần kinh trung ương, cảm giác khó chịu do một bệnh lý gần như đã khỏi mà nếu không sẽ được coi là nhẹ hoặc không đáng kể, nhưng lại được coi là đau đáng kể.

Trong một số trường hợp (ví dụ: đau lưng mạn tính sau chấn thương), nguồn gốc của cơn đau là rõ ràng; ở những người khác (ví dụ: đau đầu mạn tính, đau mặt không điển hình, đau bụng mạn tính), nguồn gốc gây ra là mơ hồ hoặc che lấp. Tuy nhiên, trong hầu hết các tình trạng đau mạn tính, rất khó để nhận ra bằng chứng về tổn thương hoặc thương tổn đang diễn ra hoặc xác định phương pháp chữa trị rõ ràng.

Đau mạn tính có thể gây ra đau khổ về mặt tâm lý, nhưng các yếu tố tâm lý hiện có có thể ảnh hưởng đáng kể đến toàn bộ trải nghiệm đau. Đau mạn tính thường dẫn đến hoặc làm trầm trọng thêm các vấn đề về tâm lý (ví dụ: trầm cảm, lo âu). Phân biệt nguyên nhân tâm lý với kết quả thường rất khó.

Con người (ví dụ: thành viên gia đình, bạn bè) và nhiều yếu tố khác trong môi trường của bệnh nhân có thể củng cố các hành vi làm kéo dài tình trạng đau mạn tính. Một số yếu tố nguy cơ, bao gồm các sự kiện bất lợi thời thơ ấu (lạm dụng thể chất, lạm dụng tình cảm, lạm dụng lời nói và lạm dụng tình dục), đã được chứng minh là làm tăng nguy cơ phát sinh đau mạn tính ở tuổi trưởng thành.

Hội chứng đau xơ cơ

Đau xơ cơ là một trong những hội chứng đau lan tỏa mạn tính phổ biến nhất và là ví dụ tiêu biểu của tình trạng đau thần kinh trung ương. Giống như hầu hết các hội chứng đau mạn tính, triệu chứng đau này phổ biến hơn ở nữ giới; tuy nhiên, khi tiêu chuẩn chẩn đoán được cập nhật vào năm 2016, hiện nay có nhiều nam giới có chẩn đoán mắc bệnh xơ cơ hơn so với trước đây và khoảng cách giới tính đã thu hẹp lại.

Nguyên nhân bệnh sinh vẫn chưa được biết rõ, nhưng có thể liên quan đến hội chứng nhạy cảm trung ương với tình trạng suy giảm khả năng điều hòa đau và các con đường cảm thụ đau và trung tâm xử lý bị kích thích và phản ứng quá mức với các kích thích.

Chẩn đoán là lâm sàng và không có kiểm tra xác nhận chẩn đoán. Tuy nhiên, một số tổ chức đã phát triển các tiêu chuẩn chẩn đoán cụ thể (1, 2). Tiêu chuẩn chẩn đoán bao gồm chỉ số đau lan tỏa (WPI), tính đến các triệu chứng khác như mệt mỏi, suy giảm nhận thức, rối loạn giấc ngủ và các triệu chứng đường tiêu hóa (tức là hội chứng ruột kích thích); một số triệu chứng này được bệnh nhân gọi là "sương mù não". Chính những triệu chứng của phần sau này, không có triệu chứng đau giúp phân biệt bệnh xơ cơ với các nguyên nhân gây đau lan rộng khác.

Tài liệu tham khảo về đau cơ xơ hóa

  1. 1. Galvez-Sánchez CM, A. Reyes del Paso GA. Diagnostic criteria for fibromyalgia: Critical review and future perspectives. J Clin Med. 9 (4): 1219, 2020. doi: 10.3390/jcm9041219

  2. 2. Häuser W, Brähler E, Ablin J, Wolfe F. Modified 2016 American College of Rheumatology fibromyalgia criteria, the analgesic, anesthetic, and addiction clinical trial translations innovations opportunities and networks–American Pain Society Pain Taxonomy, and the Prevalence of Fibromyalgia. Arthritis Care & Research. 73 (5): 617–625, 2021.

Điều trị đau mạn tính lan rộng (có tính trung ương)

Các chiến lược điều trị bệnh xơ cơ có thể được sử dụng làm khuôn mẫu cho việc điều trị nhiều rối loạn đau thần kinh trung ương hoặc các phần của đau thần kinh trung ương trong các tình trạng đau mạn tính. Nền tảng của phương pháp điều trị là liệu pháp đa phương thức (ví dụ: thuốc giảm đau, vật lý trị liệu, điều trị tâm lý và tự kiểm soát).

M Thuốc, trị liệu đang dùng (Medications)

Thuốc giảm đau được sử dụng cho chứng đau lan rộng mận tính bao gồm

  • Các thuốc chống viêm không có steroid (NSAID)

  • Gabapentin hoặc pregabalin

  • Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine (SNRI) (ví dụ: duloxetine, milnacipran)

  • Thuốc chống trầm cảm ba vòng (ví dụ: nortriptyline, amitriptyline, desipramine)

naltrexone liều thấp (LDN) được sử dụng làm một phương pháp điều trị ngoài chỉ định cho bệnh xơ cơ, tận dụng khả năng điều hòa hệ thống miễn dịch và làm giảm viêm, có thể giúp giảm đau và giảm mệt mỏi. LDN được cho là có tác dụng ngăn chặn tạm thời các thụ thể opioid, dẫn đến sự gia tăng sản sinh ra endorphin, có thể giúp giảm đau và cải thiện tâm trạng. Trong khi nghiên cứu về LDN cho bệnh xơ cơ vẫn đang trong giai đoạn phát triển, một số nghiên cứu cho thấy đây có thể là một lựa chọn hiệu quả và được dung nạp tốt để kiểm soát các triệu chứng ở một số bệnh nhân (1).

Thường cần phải sử dụng một hoặc nhiều loại thuốc có cơ chế tác dụng khác nhau (dùng nhiều loại thuốc hợp lý).

Các phương pháp điều trị không dùng thuốc

Vật lý trị liệu, đặc biệt là bài tập aerobic tác động thấp có lợi cho đau thần kinh trung ương và là nền tảng của mô hình điều trị hiện tại cho bệnh đau xơ cơ (2). Vật lý trị liệu cho bệnh đau xơ cơ thường tập trung vào việc cải thiện chức năng thể chất và giảm đau thông qua các chương trình tập thể dục phù hợp bao gồm các bài tập kéo giãn, tăng cường sức mạnh và các hoạt động aerobic tác động thấp. Các nhà trị liệu cũng có thể kết hợp các kỹ thuật như liệu pháp thủ công, thủy trị liệu và giáo dục về các chiến lược kiểm soát cơn đau để nâng cao khả năng kiểm soát triệu chứng của bệnh nhân. Tăng cường hoạt động thể chất và tập thể dục là rất quan trọng đối với bệnh nhân mắc bệnh xơ cơ vì nó có thể cải thiện chức năng thể chất, giấc ngủ, mức độ đau và mệt mỏi. Các chương trình tập luyện nên được cá nhân hóa dựa trên sở thích, tình trạng thể chất và bệnh đi kèm của bệnh nhân, tập trung vào các hoạt động aerobic tác động thấp và tiến triển dần dần. Mặc dù bệnh nhân có thể cảm thấy khó chịu lúc đầu, việc đặt ra kỳ vọng và tốc độ thực tế có thể tăng cường khả năng tuân thủ và lợi ích lâu dài, với bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ hiệu quả của các hoạt động như bài tập aerobic có ít tác động, rèn luyện sức mạnh và thái cực quyền (3).

Giáo dục bệnh nhân về đau thần kinh trung ương là cần thiết và nên bao gồm thảo luận về bản chất không viêm của tình trạng này, tác dụng hạn chế nhưng hữu ích của điều trị bằng thuốc và tầm quan trọng của phương pháp điều trị đa phương thức. Các bác sĩ lâm sàng nên nhấn mạnh vào việc xử trí các tình trạng bệnh đi kèm, giáo dục bệnh nhân về vệ sinh giấc ngủ và hướng dẫn họ đến các nguồn đáng tin cậy. Các nghiên cứu ủng hộ rằng giáo dục bệnh nhân, đặc biệt là khi kết hợp với các chiến lược phi dược lý khác, có thể cải thiện đáng kể các triệu chứng và kết quả chung của bệnh nhân (4).

Tâm lý đau, bao gồm liệu pháp hành vi có thể cải thiện chức năng của bệnh nhân, ngay cả khi không làm giảm đau. Bệnh nhân nên giữ nhật ký về các hoạt động hàng ngày để xác định chính xác khu vực có thay đổi. Bác sĩ nên đưa ra các khuyến cáo cụ thể cho việc tăng dần hoạt động thể chất và sự tham gia các hoạt động xã hội. Các hoạt động cần được định hình tăng dần theo từng đơn vị thời gian; nên hạn chế đau ở mức độ thấp nhất có thể, không cần phải chịu đau để đạt được các mức độ hoạt động chức năng tốt hơn. Sự tiến triển hoạt động theo cách thức này góp phần làm giảm biểu hiện đau của bệnh nhân.

Các liệu pháp nhận thức hoặc liệu pháp tâm lý, chẳng hạn như liệu pháp nhận thức hành vi (CBT), giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm và các kỹ thuật thư giãn, được khuyến nghị cho hầu hết bệnh nhân bị đau thần kinh trung ương và nên được điều chỉnh theo sở thích cá nhân và nguồn lực sẵn có. Các liệu pháp này, đặc biệt là CBT, đã được chứng minh là có thể cải thiện chức năng thể chất, mức độ đau và tâm trạng, cùng với các lựa chọn kỹ thuật số mới giúp bệnh nhân dễ tiếp cận hơn.

Cách cư xử của các thành viên trong gia đình hoặc đồng nghiệp làm củng cố cách hành xử với đau (ví dụ như yêu cầu liên tục về sức khoẻ của bệnh nhân hoặc khăng khăng rằng bệnh nhân không phải làm việc nhà) không khuyến khích. Bác sĩ nên tránh các hành vi làm tăng thêm đau, không khuyến khích hành vi không thích hợp, khen ngợi, và điều trị đau trong khi nhấn mạnh sự hồi phục chức năng.

Chương trình phục hồi chức năng khi có đau là chương trình đa ngành dành cho bệnh nhân bị đau mạn tính. Các chương trình này bao gồm giáo dục, liệu pháp nhận thức - hành vi, vật lý trị liệu, đơn giản hóa chế độ dùng thuốc và đôi khi là giải độc và giảm dần thuốc giảm đau. Họ tập trung vào

  • Phục hồi chức năng

  • Cải thiện chất lượng cuộc sống

  • Giúp bệnh nhân kiểm soát cuộc sống của chính họ, mặc dù đau mãn tính

Xử trí đau bằng can thiệp bao gồm nhiều thủ thuật xâm lấn tối thiểu có thể giúp điều trị đau lan rộng bằng cách nhắm vào nguồn gốc có thể gây ra triệu chứng đau đó.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Patten DK, Schultz BG, Berlau DJ. The Safety and Efficacy of Low-Dose Naltrexone in the Management of Chronic Pain and Inflammation in Multiple Sclerosis, Fibromyalgia, Crohn's Disease, and Other Chronic Pain Disorders. Pharmacotherapy. 2018;38(3):382-389. doi:10.1002/phar.2086

  2. 2. Arribas-Romano A, Fernández-Carnero J, Molina-Rueda F, Angulo-Diaz-Parreño S, Navarro-Santana MJ. Efficacy of Physical Therapy on Nociceptive Pain Processing Alterations in Patients with Chronic Musculoskeletal Pain: A Systematic Review and Meta-analysis. Pain Med. 2020;21(10):2502-2517. doi:10.1093/pm/pnz366

  3. 3. Bidonde J, Busch AJ, Schachter CL, et al. Aerobic exercise training for adults with fibromyalgia. Cochrane Database Syst Rev. 2017;6(6):CD012700. Xuất bản ngày 21 tháng 6 năm 2017. doi:10.1002/14651858.CD012700

  4. 4. Saracoglu I, Akin E, Aydin Dincer GB. Efficacy of adding pain neuroscience education to a multimodal treatment in fibromyalgia: A systematic review and meta-analysis. Int J Rheum Dis. 2022;25(4):394-404. doi:10.1111/1756-185X.14293

quizzes_lightbulb_red
Test your KnowledgeTake a Quiz!