Tổng quan về các khối u vùng đầu cổ

TheoBradley A. Schiff, MD, Montefiore Medical Center, The University Hospital of Albert Einstein College of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 12 2022

Mỗi năm, ở Hoa Kỳ, có tới gần 65.000 bệnh nhân mắc ung thư vùng đầu cổ. Khi loại trừ ung thư da và ung thư tuyến giáp, có tới > 90% trường hợp ung thư vùng đầu cổ là ung thư biểu mô tế bào vẩy (dạng biểu bì); đa số các trường hợp còn lại là ung thư biểu mô tuyến, sarcoma và u lympho.

Các vị trí ung thư hay gặp nhất tại vùng đầu cổ bao gồm

  • Thanh quản (bao gồm nắp thanh quản, thanh môn, và hạ thanh môn)

  • Khoang miệng (lưỡi, sàn miệng, khẩu cái cứng, niêm mạc má, và ung thư chân răng)

  • Họng miệng (gốc lưỡi, amydal, và vòm miệng mềm)

Các vị trí ít phổ biến hơn bao gồm vòm họng, khoang mũi và xoang sàng, hạ họngtuyến nước bọt.

Tổng quan về các khối u vùng đầu cổ

Tỷ lệ mắc bệnh ung thư vùng đầu cổ tăng theo tuổi. Mặc dù hầu hết bệnh nhân ở độ tuổi từ 50 đến 70, nhưng tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ nhỏ ngày càng tăng (chủ yếu là miệng họng) gây ra bởi nhiễm virut papillomavirus ở người (HPV). Ung thư đầu và cổ phổ biến ở nam giới hơn so với nữ giới, ít nhất một phần là do nam giới hút thuốc liên tục nhiều hơn nữ giới hút thuốc và do nhiễm HPV ở miệng thường gặp hơn ở nam giới.

Căn nguyên của Khối u vùng đầu cổ

Phần lớn bệnh nhân (ít nhất là 85%) mắc ung thư vùng đầu cổ có tiền sử uống rượu, hút thuốc lá, hoặc cả hai. Những người nghiện thuốc lá và uống rượu nặng, kéo dài có nguy cơ mắc ung thư tế bào vẩy tăng lên tới 40 lần. Các tác nhân khác cũng bị nghi ngờ bao gồm việc sử dụng hít hoặc nhai thuốc lá, tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, chụp Xquang vùng đầu cổ trước đó, một số bệnh nhiễm virut, dùng thiết bị nha khoa không phù hợp, nhiễm Candida mạn tính và vệ sinh răng miệng kém. Tại Ấn Độ, ung thư khoang miệng rất phổ biến, có thể là do nhai trầu (một hỗn hợp các chất, còn gọi là trầu không). Phơi nhiễm lâu dài với ánh sáng mặt trời và việc sử dụng các sản phẩm từ thuốc lá là nguyên nhân chính gây ung thư biểu mô tế bào vẩy ở môi dưới.

Mối liên quan giữa nhiễm virut papillomavirus ở người (HPV) và ung thư biểu mô tế bào vẩy vùng đầu cổ, đặc biệt là ung thư họng miệng, đã được xác định. Sự gia tăng ung thư liên quan đến HPV đã làm gia tăng tỷ lệ ung thư họng miệng, vốn được kỳ vọng sẽ giảm do hút thuốc giảm trong 2 thập kỷ gần đây. Cơ chế cho sự hình thành khối u qua trung gian virut có khác với các con đường liên quan đến thuốc lá.

Những bệnh nhân được chiếu tia bức xạ để điều trị mụn trứng cá, rậm lông vùng mặt, tuyến ức to, amydal quá phát, và viêm VA có xu hướng mắc bệnh ung thư tuyến giáp, ung thư ,và u lành tính tuyến nước bọt.

Virus Epstein-Barr đóng vai trò trong quá trình bệnh sinh của ung thư vòm họng, và các chỉ số huyết thanh của một số protein virus Epstein-Barr có thể là chất chỉ điểm sinh học để phát hiện bệnh tái phát.

Triệu chứng và Dấu hiệu Khối u vùng đầu cổ

Các biểu hiện của ung thư vùng đầu cổ phụ thuộc rất nhiều vào vị trí và mức độ lan rộng của khối u. Các biểu hiện ban đầu thường gặp của ung thư vùng đầu cổ

  • Không triệu chứng khối u vùng cổ

  • Đau loét niêm mạc

  • Tổn thương niêm mạc có thể nhìn thấy (ví dụ, bạch sản, hồng sản)

  • Khàn tiếng

  • Khó nuốt

Các triệu chứng muộn hơn phụ thuộc vào vị trí và mức lan rộng của khối u và bao gồm đau, dị cảm, liệt thần kinh, cứng hàm, và hơi thở hôi

  • Đau

  • Dị cảm

  • Thần kinh palsies

  • Khít hàm

  • Hơi thở hôi

Đau tai là một triệu chứng thường bị bỏ qua, do đau từ khối u nguyên phát. Sút cân do ăn kém; đau khi nuốt cũng rất thường gặp.

Chẩn đoán Khối u vùng đầu cổ

  • Đánh giá lâm sàng

  • Sinh thiết

  • Chẩn đoán hình ảnh và nội soi để đánh giá mức độ lan tràn của bệnh

Khám sức khoẻ định kỳ (bao gồm khám miệng) là cách tốt nhất để phát hiện ung thư sớm trước khi biểu hiện triệu chứng. Bộ kít sinh thiết bàn chải giúp sàng lọc ung thư khoang miệng. Các triệu chứng ở đầu và cổ không rõ nguyên nhân như là đau họng, khàn tiếng hoặc đau tai kéo dài > 2 tuần đến 3 tuần cần phải nhanh chóng chuyển đến bác sĩ chuyên khoa đầu và cổ, họ thường sẽ thực hiện nội soi thanh quản bằng sợi quang mềm để đánh giá thanh quản và hầu họng.

Sinh thiết cần được tiến hành để chẩn đoán xác định. Sinh thiết kim thường được sử dụng trong chẩn đoán khối vùng cổ; vì dễ được chấp nhận, chính xác và khác với sinh thiết mở, thủ thuật này không ảnh hưởng đến các lựa chọn điều trị sau đó. Tổn thượng vùng miệng được đánh giá bằng sinh thiết rạch và/hoặc sinh thiết chải. Ung thư vòm mũi họng, họng miệng hay thanh quản được sinh thiết qua nội soi.

Chẩn đoán hình ảnh (CT, MRI, hoặc PET/CT) được thực hiện để giúp xác định mức độ lan tràn của khối u nguyên phát, sự liên quan tới các cấu trúc xung quanh và hạch vùng cổ.

Phân giai đoạn Khối u vùng đầu cổ

Ung thư vùng đầu cổ được phân loại giai đoạn (xem tài liệu tham khảo theo kích thước u nguyên phát (T), số lượng và kích thước hạch di căn (N), và bằng chứng di căn xa (M) (1, 2). Cho ung thư thực quản, tình trạng HPV cũng được xem xét. Kết quả CT, MRI, hoặc cả hai, và đặc biệt là PET/CT thường cần đến để phân loại giai đoạn bệnh.

Giai đoạn lâm sàng (cTNM) dựa trên kết quả khám lâm sàng và các xét nghiệm được thực hiện trước khi phẫu thuật. Phân loại giai đoạn bệnh lý (pTNM) dựa trên đặc điểm bệnh lý của khối u nguyên phát và số hạch dương tính được tìm thấy trong quá trình phẫu thuật.

Tổn thương xâm lấn hạch được kết hợp vào loại "N" cho ung thư di căn đến các hạch vùng cổ. Chẩn đoán lâm sàng của việc xân lấn ngoài hạch thể dựa trên việc tìm kiếm bằng chứng của việc xâm lấn ngoài hạch trong quá trình khám lâm sàng cùng với các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh. Mô bệnh học xâm lấn ngoài hạch được định nghĩa là bằng chứng mô học của khối u trong một hạch bạch huyết kéo dài qua các nang bạch huyết vào mô liên kết xung quanh, có hoặc không có phản ứng mô đệm.

Tài liệu tham khảo về phân giai đoạn

  1. 1.  Amin MB, Edge S, Greene F, Byrd DR, et al: American Joint Committee on Cancer (AJCC) Cancer Staging Manual, 8th edition. New York, Springer, 2017; AJCC Cancer Staging Form Supplement, 2018.

  2. 2. Cramer JD, Reddy A, Ferris RL, et al: Comparison of the seventh and eighth edition American Joint Committee on Cancer oral cavity staging systems. Laryngoscope, 128(10):2351-2360, 2018. doi: 10.1002/lary.27205

Tiên lượng Khối u vùng đầu cổ

Tiên lượng trong ung thư vùng đầu cổ rất thay đổi, phụ thuộc vào kích thước u, vị trí nguyên phát, nguyên nhân gây bệnh, di căn hạch vùng và si căn xa. Nhìn chung, tiên lượng tốt hơn nếu bệnh được chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời và phù hợp.

Ung thư vùng đầu cổ trước hết sẽ xâm lấn tại chỗ, sau đó di căn tới hạch vùng cổ. Sự di căn tới các hạch vùng một phần liên quan tới kích thước, sự lan tràn của u, mức độ ác tính và giảm thời gian sống thêm gần một nửa. Di căn xa (đa số các trường hợp là di căn phổi) có xu hướng diễn ra muộn, thường ở bệnh nhân giai đoạn tiến xa. Di căn xa làm giảm rất lớn thời gian sống thêm và trong hầu hết các trường hợp là không còn khả năng chữa khỏi.

Tiến triển tại chỗ (với tiêu chuẩn giai đoạn T), khi đã xâm nhập lớp cơ, xương hay sụn, cũng làm giảm đáng kể tỷ lệ điều trị khỏi. Khi bệnh xâm lấn thần kinh ngoại vi, với biểu hiện đau, liệt, hoặc tê, cho thấy u rất ác tính và liên quan tới di căn hạch, cũng làm tiên lượng xấu đi.

Nếu điều trị thích hợp, tỷ lệ sống sau 5 năm của bệnh nhân có thể đạt tới 90% với giai đoạn I, 75 đến 80% với giai đoạn II, 45 đến 75% với giai đoạn III và lên tới 50% với một số ung thư giai đoạn IV. Tỷ lệ sống còn thay đổi rất nhiều, phụ thuộc vào vị trí u nguyên phát cũng như cơ chế bệnh sinh. Ung thư thanh quản giai đoạn I có tỷ lệ sống còn rất cao khi so sánh với các loại ung thư khác. Các trường hợp ung thư vòm mũi họng gây ra bởi HPV, tiên lượng sẽ tốt hơn khi bệnh sinh do thuốc là và rượu. Do sự khác biệt trong tiên lượng giữa ung thư vòm mũi họng có HPV (+) và HPV (-), tất cả bệnh nhân cần được xét nghiệm virut này một cách thường quy.

Điều trị Khối u vùng đầu cổ

  • Phẫu thuật, xạ trị, hoặc cả hai

  • Hóa trị đôi khi cũng được chỉ định

Các phương pháp điều trị chính cho ung thư đầu và cổ là phẫu thuậtxạ trị. Những phương thức này có thể được sử dụng đơn độc hoặc phối hợp và có hoặc không có hóa trị. Nhiều khối u không kể vị trí có đáp ứng như nhau đối với phẫu thuật và xạ trị, cho phép xác định lựa chọn điều trị dựa theo các yếu tố khác như sở thích của bệnh nhân hoặc tiền sử mắc bệnh theo vị trí cụ thể.

Tuy nhiên, ở một số vị trí, có một ưu điểm vượt trội của một phương thức. Ví dụ, phẫu thuật tốt hơn đối với bệnh giai đoạn đầu liên quan đến khoang miệng vì liệu pháp xạ trị có khả năng gây ra hoại tử xương hàm dưới. Phẫu thuật nội soi đã trở nên phổ biến hơn trong một số bệnh ung thư ở đầu cổ, nó có tỷ lệ chữa khỏi tương tự hoặc hơn phẫu thuật mở hoặc xạ trị, và biến chứng của phương pháp này ít hơn đáng kể. Phương pháp nội soi thường được sử dụng cho phẫu thuật thanh quản và thường sử dụng laser để cắt bỏ. Phương pháp nội soi cũng đang được sử dụng trong điều trị các khối u xoang.

Nếu xạ trị được chọn để điều trị ban đầu, nó sẽ được chiếu tia vào u nguyên phát và đổi khi cả hạch cổ hai bên. Việc điều trị hạch hoặc bằng xạ trị hoặc phẫu thuật, được xác định tùy theo vị trí u nguyên phát, tiêu chuẩn mô học, và nguy cơ di căn hạch. Các tổn thương giai đoạn sớm thường không cần điều trị các hạch bạch huyết, trong khi các tổn thương giai đoạn tiến triển thị cần được điều trị. Các vùng đầu cổ có nhiều bạch huyết (họng miệng, trên dây thanh) thường đòi hỏi phải có xạ trị vào hạch cổ, bất kể giai đoạn khối u, trong khi vị trí có ít bạch huyết (như thanh quản) thường không cần xạ trị hạch bạch huyết cho giai đoạn sớm. Phương pháp xạ trị điều biến liều (IMRT) giúp tập trung liều bức xạ vào tổn thương, có khả năng làm giảm tác dụng phụ mà không ảnh hưởng đến việc kiểm soát khối u.

Khi bệnh giai đoạn tiến triển (giai đoạn III và IV) thường đòi hỏi phải điều trị đa phương thức, kết hợp một số liệu pháp: hóa trị, xạ trị và phẫu thuật. Khi khối u xâm lấn xương hoặc sụn đòi hỏi phải phẫu thuật cắt bỏ u nguyên phát và thường phải vét các hạch bạch huyết khu vực do nguy cơ lan rộng. Nếu u nguyên phát được điều trị bằng phẫu thuật, thì xạ trị sau phẫu thuật vào các hạch bạch huyết vùng cổ nếu chúng có nguy cơ cao như di căn nhiều hạch, phá vỡ vỏ bao. Xạ trị sau phẫu thuật thường được ưu thích hơn so với xạ trị trước phẫu thuật do các mô sau khi chiếu xạ thường khó lành lại hơn.

Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng việc bổ sung hoá trị liệu cho xạ trị vào hạch cổ giúp cải thiện sự kiểm soát vùng của bệnh ung thư và cải thiện thời gian sống thêm. Tuy nhiên, cách tiếp cận này gây ra các tác dụng có hại đáng kể, chẳng hạn như tăng chứng khó nuốt và độc tính với tủy xương, do đó việc quyết định bổ sung hoá trị phải được xem xét cẩn thận.

Ung thư biểu mô tế bào vẩy tiến triển mà không có sự xâm lấn xương thường được điều trị với hóa trị liệu cùng với xạ trị. Mặc dù được hạn chế tối đa sự chiếu xạ vào mô lành, nhưng việc kết hợp hoá trị liệu với xạ trị sẽ tăng gấp đôi mức độ độc tính cấp tính, đặc biệt là khó nuốt. Tia xạ có thể được sử dụng đơn thuần cho những bệnh nhân suy nhược với bệnh tiến triển, những người không thể chịu đựng được biến chứng của hóa trị và có nguy cơ cao gây mất cảm giác toàn thân.

Tuy nhiên, hóa trị hầu như không bao giờ được sử dụng làm phương pháp điều trị chính trong điều trị. Hóa trị bước đầu được áp dụng cho các khối u nhạy cảm với hoá trị liệu, chẳng hạn như Burkitt lymphoma, hoặc cho những bệnh nhân có di căn lan rộng (ví dụ: di căn gan, phổi). Một số loại thuốc như cisplatin, fluorouracil, bleomycin, và methotrexate giúp giảm đau và co lại khối u ở những bệnh nhân không thể điều trị bằng các phương pháp khác. Đáp ứng ban đầu có thể tốt nhưng không bền, và phần lớn các trường hợp ung thư hầu có thể xuất hiện trở lại. Các loại thuốc điều trị đích như cetuximab ngày càng được sử dụng thay vì các loại thuốc hóa chất truyền thống cho những bệnh nhân chọn lọc, nhưng số liệu về hiệu quả cho đến nay vẫn còn hạn chế.

Vì điều trị ung thư đầu cổ và cổ rất phức tạp nên việc lập kế hoạch điều trị đa chuyên ngành là điều cần thiết. Lý tưởng nhất là mỗi bệnh nhân phải được hội đồng hội chẩn thảo luận bao gồm các thành viên của tất cả các chuyên khoa điều trị, cùng với các bác sĩ chuyên khoa Chẩn đoán hình ảnh, Giải phẫu bệnh, để có thể đạt được sự đồng thuận về việc điều trị tốt nhất. Một khi phác đồ điều trị đã được xác định, phối hợp tốt nhất là một nhóm bao gồm các bác sĩ phẫu thuật tai mũi họng, thẩm mỹ, phẫu thuật đầu mặt cổ, xạ trị và bác sĩ nội khoa ung thư, giải phẫu bệnh, nha sĩ và chuyên gia dinh dưỡng.

Các bác sĩ phẫu thuật tạo hình có vai trò ngày càng quan trọng bởi vì việc sử dụng các vạt mô cuống dời cho phép tái tạo chức năng và thẩm mỹ các khuyết hổng để cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau các phẫu thuật trước đó. Các trang thiết bị thường dùng được sử dụng để tái tạo bao gồm xương sườn (thường được sử dụng để tái tạo hàm dưới), cánh tay xuyên tâm (thường sử dụng cho lưỡi và sàn miệng), và đùi phía trước bên (thường được sử dụng cho tái tạo thanh quản hoặc hầu họng).

Điều trị khối u tái phát

Xử trí khối u tái phát sau khi điều trị là phức tạp và có những biến chứng tiềm ẩn. Khi xuất hiện một khối hoặc tổn thương loét có phù nề hoặc đau ở vị trí nguyên phát sau khi điều trị gợi ý tồn tại một khối u tái phát. Những bệnh nhân này cần chụp CT (có lát cắt mỏng) hoặc chụp MRI.

Đối với tái phát tại chỗ sau khi điều trị phẫu thuật, tất cả các vết sẹo cũ và các vạt tái tạo được cắt bỏ cùng với tổ chức ung thư. Xạ trị, hóa trị, hoặc cả hai có thể được thực hiện nhưng có hiệu quả hạn chế. Bệnh nhân tái phát sau xạ trị được điều trị tốt nhất bằng phẫu thuật. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có thể được hưởng lợi từ các phương pháp điều trị tia xạ bổ trợ, nhưng cách tiếp cận này có nguy cơ cao tác dụng phụ và nên được thực hiện một cách thận trọng. Có các thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch pembrolizumab và nivolumab để điều trị bệnh tái phát hoặc bệnh di căn kháng với hóa trị có platinum; trong khi các kết quả ban đầu đầy hứa hẹn, vẫn chưa rõ thực hành tốt nhất để tích hợp các phương pháp điều trị này vào điều trị trên lâm sàng.

Kiểm soát triệu chứng

Đau là một triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân ung thư đầu cổ và phải được giải quyết một cách thoả đáng. Phẫu thuật triệu chứng hoặc xạ trị có thể tạm thời làm giảm đau, và trong số 30 đến 50% bệnh nhân, hóa trị liệu có thể tạo ra sự cải thiện trung bình tới 3 tháng. Một cách tiếp cận từng bước trong xử trí đau, theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới: Hướng dẫn xử trí bằng thuốc và bằng xạ trị để giảm đau do ung thư ở người lớn và thanh thiếu niên có vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát đau. Đau dữ dội được điều trị tốt nhất cùng với một chuyên gia về giảm đau và chăm sóc giảm nhẹ.

Đau, ăn khó, nghẹt thở do chất tiết, và các vấn đề khác khiến cho việc điều trị triệu chứng đầy đủ là điều cần thiết. Các hướng dẫn bệnh nhân về chăm sóc như vậy cần được làm rõ sớm.

Tác dụng phụ của điều trị

Tất cả các phương pháp điều trị ung thư đều có thể xảy ra những biến chứng và di chứng nhất định. Bởi vì nhiều phương pháp điều trị có tỷ lệ chữa khỏi tương đương nhau, sự lựa chọn phương thức chủ yếu là do sự khác biệt về các di chứng.

Mặc dù người ta thường nghĩ rằng phẫu thuật gây ra nhiều tác động nhất, nhiều phẫu thuật có thể được thực hiện mà không làm thay đổi đáng kể hình dạng hoặc chức năng. Các phương pháp và kỹ thuật tái tạo phức tạp bao gồm sử dụng các bộ phận giả, miếng ghép, vạt cuống vùng, vạt phức hợp tự do có thể khôi phục lại chức năng và diện mạo gần như bình thường.

Các tác dụng phụ của hóa trị bao gồm mệt mỏi, buồn nôn và nôn, viêm niêm mạc, rụng tóc, viêm dạ dày ruột, suy giảm chức năng miễn dịch và tạo máu, nhiễm trùng.

Xạ trị đối với ung thư vùng đầu và cổ có một số tác dụng phụ. Tuyến nước bọt bị phá hủy vĩnh viễn với tia xạ liều khoảng 40 Gy, dẫn đến chứng khô miệng, làm tăng đáng kể nguy cơ mắc các bệnh răng miệng. Các kỹ thuật xạ trị mới hơn, như xạ trị điều biến liều (IMRT), có thể giảm thiểu hoặc loại bỏ liều độc hại đối với tuyến nước bọt ở một số bệnh nhân nhất định.

Ngoài ra, nguồn cấp máu cho xương, đặc biệt là ở xương hàm dưới, bị tổn hại bởi các mức liều > 60 Gray và hoại tử xương do chiếu xạ có thể xảy ra (xem thêm Xạ trị). Trong tình huống này, các chân răng bị vỡ làm tróc xương và mô mềm. Do đó, tất cả các điều trị răng miệng cần thiết bao gồm lấy cao răng, hàn và nhổ răng nên được thực hiện trước khi xạ trị. Bất kỳ chiếc răng nào bị hỏng không thể sửa chữa được cần phải được nhổ bỏ. Không rõ liệu liệu pháp oxy cao áp có thể giúp ngăn ngừa hoại tử xương do chiếu xạ sau khi nhổ răng hay không.

Xạ trị cũng có thể gây viêm niêm mạc miệng và viêm da, két quả là dẫn đến xơ hóa da. Mất vị giác (ageusia) và khứu giác (dysosmia) hay xuất hiện nhưng thường chỉ là thoáng qua.

Phòng ngừa Khối u vùng đầu cổ

Loại bỏ các yếu tố nguy cơ rất quan trọng, và tất cả các bệnh nhân nên ngừng sử dụng thuốc lá và hạn chế uống rượu. Loại bỏ các yếu tố nguy cơ cũng giúp phòng ngừa bệnh tái phát ở bệnh nhân đã điều trị ung thư. Một ung thư nguyên phát mới phát triển ở khoảng 5% bệnh nhân/năm (với nguy cơ tối đa khoảng 20%); nguy cơ thấp hơn ở những người ngừng sử dụng thuốc lá.

Các vắc-xin chống HPV hiện tại nhắm tới một số chủng HPV gây ra ung thư họng miệng, do đó việc tiêm văcxin như hiện nay được khuyến cáo có thể làm giảm tỷ lệ mắc các loại ung thư này.

Ung thư môi dưới có thể được ngăn ngừa bằng cách sử dụng kem chống nắng và ngừng thuốc lá. Bởi vì 60% ung thư vùng đầu và cổ được chẩn đoán khi đã ở giai đoạn tiến triển (giai đoạn III hoặc IV), chiến lược tốt nhất để giảm tỷ lệ bệnh và tử vong là kiểm tra thường xuyên khoang miệng.