Các u ở miệng

TheoBernard J. Hennessy, DDS, Texas A&M University, College of Dentistry
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 02 2022

U có thể bắt nguồn từ bất kỳ loại mô nào trong và xung quanh miệng, bao gồm mô liên kết, xương, cơ và dây thần kinh. Thông thường hay gặp u hình thành trên môi, mặt bên lưỡi, sàn miệng, và vòm miệng mềm. Một số u gây đau hoặc kích thích. U có thể được phát hiện bởi bệnh nhân hoặc chỉ phát hiện khi khám.

(Xem thêm Đánh giá bệnh nhân nha khoa, Ung thư biểu mô tế bào vảy, Ung thư biểu mô tế bào sừngNấm Candida [niêm mạc].)

Nguyên nhân U ở miệng

U ở miệng có thể là

  • Lành tính

  • Tiền ác tính (loạn sản)

  • Ác tính

Các u miệng lành tính

Hầu hết các u miệng là lành tính; có rất nhiều loại.

Các u ở miệng
U miệng lành tính (u xơ do kích ứng)
U miệng lành tính (u xơ do kích ứng)
Bức ảnh này cho thấy u ở miệng do kích ứng mạn tính. Trong trường hợp này, một u xơ ở mặt trong má hình thành do niềng ... đọc thêm

BÁC SĨ P. MARAZZI/SCIENCE PHOTO LIBRARY

U nhú vảy – Mụn cóc thông thường
U nhú vảy – Mụn cóc thông thường
Ví dụ về u nhú vảy ở miệng là một mụn cơm bình thường (verruca vulgaris), xuất hiện dưới dạng một tổn thương màu thịt n... đọc thêm

BÁC SĨ P. MARAZZI/SCIENCE PHOTO LIBRARY

U nhú vảy ở lưỡi
U nhú vảy ở lưỡi
Bức ảnh này cho thấy một mụn cóc xuất hiện dưới dạng một u nhú có cuống (u lồi ra ngoài, giống như súp lơ) ở mặt dưới c... đọc thêm

CLINICA CLAROS/SCIENCE PHOTO LIBRARY

Tưa miệng
Tưa miệng
Các mảng trắng kem có thể nhìn thấy bên trong miệng và có thể chảy máu khi cạo ra. Dấu hiệu này là điển hình của bệnh t... đọc thêm

Hình ảnh do bác sĩ Thomas Habif cung cấp

U nang nhái
U nang nhái
Bức ảnh này cho thấy cận cảnh một u nhái (giữa) trong miệng của một người. U nhái là nang niêm dịch xuất hiện ở sàn miệ... đọc thêm

CLINICA CLAROS/SCIENCE PHOTO LIBRARY

Lồi xương hàm trên
Lồi xương hàm trên
Lồi xương vòm miệng là khối xương cứng thường gặp xảy ra dọc theo đường trung tâm của vòm miệng cứng (thường là hai bên... đọc thêm

BÁC SĨ P. MARAZZI/SCIENCE PHOTO LIBRARY

Lồi xương hàm dưới
Lồi xương hàm dưới
Tăng trưởng lành tính của hình thái lưỡi của hàm dưới có thể nhìn thấy ở phía bên trái của miệng bệnh nhân.

© Springer Science+Business Media

U nang lưu giữ nhầy (nang niêm dịch, hiện tượng thoát nhầy)
U nang lưu giữ nhầy (nang niêm dịch, hiện tượng thoát nhầy)
Bức ảnh này cho thấy nang niêm dịch ở môi, một khối lành tính bao gồm một túi sưng lên chứa đầy nhầy. Nang niêm dịch th... đọc thêm

BÁC SĨ P. MARAZZI/SCIENCE PHOTO LIBRARY

U tuyến đa hình của tuyến nước bọt ở hàm ếch
U tuyến đa hình của tuyến nước bọt ở hàm ếch
U tuyến đa hình là loại ung thư lành tính trong miệng phổ biến nhất. Niêm mạc ở hàm ếch là vị trí xuất hiện phổ biến nh... đọc thêm

BÁC SĨ P. MARAZZI/SCIENCE PHOTO LIBRARY

U tuyến nước bọt mang tai
U tuyến nước bọt mang tai
Bệnh nhân này có khối u tuyến nước bọt mang tai lớn ở bên phải. Các nốt sẩn màu trắng trên da của bà ấy là một phát hiệ... đọc thêm

Hình ảnh do K. Mae Lennon và Clement Benjamin cung cấp thông qua Thư viện Hình ảnh Y tế Công cộng của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh.

Kích thích mạn tính có thể tạo một khối dai dẳng hoặc một vùng phồng lên trên lợi. U lành tính do kích ứng tương đối phổ biến và, nếu cần thiết, có thể được loại bỏ bằng phẫu thuật. Trong 10 đến 40% bệnh nhân, u lành tính ở lợi tái phát do yếu tố kích thích vẫn còn. Đôi khi, các yếu tố kích thích này, đặc biệt nếu nó vẫn tồn tại trong một thời gian dài, có thể dẫn đến các thay đổi tiền ác tính hoặc ác tính.

Mụn cóc có thể xuất hiện trong miệng (u nhú vảy ở miệng). Mụn cóc thường (verrucae vulgaris) có thể lây nhiễm vào miệng nếu bệnh nhân mút hoặc cắn mụn cóc ở ngón tay. Sùi mào gà, do nhiễm papillomavirus ở người (HPV), cũng có thể xuất hiện trong khoang miệng khi quan hệ tình dục bằng miệng. Mụn cóc ở miệng có thể thoái lui một cách tự nhiên nhưng chậm (trong vài tháng hoặc vài năm). Cách điều trị điển hình là phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn nếu có thể.

Miệng nhiễm nấm Candidan (tưa) thường xuất hiện như những mảng trắng, màng bã đậu dính chặt vào màng niêm mạc và để lại vết loét đỏ khi bị bóc đi. Tưa phổ biến nhất ở những bệnh nhân tiểu đường hoặc suy giảm miễn dịch, những bệnh nhân đang dùng kháng sinh.

Nhiều loại nang gây đau và sưng tấy vùng hàm. Thông thường chúng có liên quan với răng khôn ngầm và khi tiến triển có thể gây phá hủy lớn ở xương hàm. Một số loại nang có xu hướng tái phát sau khi được phẫu thuật cắt bỏ. Các loại nang cũng có thể phát triển ở sàn miệng. Thông thường, các nang này được phẫu thuật cắt bỏ vì gây nuốt khó và mất thẩm mỹ.

Niêm mạc (nang nhầy và nang nhái) không đau, lành tính, sưng tấy trong lòng miệng do sự tích tụ của nang tuyến nước bọt hoặc giả nang tuyến nước bọt. Họ thường bị chấn thương về nguồn gốc. Cho đến nay các tổn thương phổ biến nhất, niêm mạc thường xảy ra ở bên trong môi dưới và thường có màu xanh mờ do sự xuất hiện của niêm mạc dưới niêm mạc. Chúng thường là kết quả của việc vô tình cắn môi (dưới) và xảy ra khi dòng nước bọt từ một tuyến nước bọt nhỏ bị tắc nghẽn. Hầu hết các chất nhầy biến mất sau một hoặc hai tuần. Nang nhái sàn miệng là lớn, thường nhầy niêm mạc trên sàn miệng. Điều trị là phẫu thuật cắt bỏ.

Lồi xương là các khối xương phát triển chậm, hình tròn nằm trong xương, nằm giữa vòm miệng cứng (torus palatinus) hoặc mặt trong xương hàm dưới (torus mandibularis). Lồi rắn này phổ biến và vô hại. Thậm chí một lồi xương lớn cũng không cần phải can thiệp trừ khi nó gây chấn thương khi ăn hoặc bệnh nhân cần làm hàm giả tại nơi có lồi rắn.

Hội chứng Gardner là một loại bệnh polyp tuyến có tính chất gia đình, một rối loạn di truyền của đường tiêu hóa có liên quan đến đa polip kết trực tràng. Những bệnh nhân có hội chứng Gardner thường biểu hiện u xương trong miệng, lâm sàng nhìn như đa lồi rắn, đặc biệt là ở cành ngang và góc hàm xương hàm dưới.

U gai sừng là u hình thành trên môi và các vùng tiếp xúc với ánh nắng mặt trời khác như mặt, cánh tay và bàn tay. U gai sừng thường đạt kích thước tối đa từ 1 đến 3 cm hoặc có thể hơn trong vòng 1 đến 2 tháng, sau đó bắt đầu co lại sau vài tháng và cuối cùng có thể biến mất mà không cần điều trị. Trước đây, tất cả u gai sừng không được xem là ung thư, nhưng một số chuyên gia hiện nay cho rằng ở những bệnh nhân mà khối u không giảm kích thước thì có nguy cơ tiến triển thành tổn thương ung thư cấp thấp, và khuyên nghị rằng những tổn thương này cần được sinh thiết hoặc cắt bỏ.

U răng là sự phát triển quá mức của các tế bào tạo răng trông giống như những cái răng nhỏ, không rõ hình thù. Ở trẻ em, chúng có thể xảy ra trong quá trình mọc răng bình thường. Ở người trưởng thành, chúng có thể đẩy răng ra khỏi cung hàm. U răng lớn cũng có thể gây to hàm trên hoặc hàm dưới. Chúng thường được phẫu thuật cắt bỏ.

Các khối u tuyến nước bọt chủ yếu là lành tính 75 đến 80%, chậm phát triển và không đau. Chúng thường xuất hiện đơn độc, mềm, di động, nằm dưới vùng da bình thường hoặc dưới niêm mạc má. Đôi khi, chúng mềm mại khi rỗng và chứa dịch. Loại phổ biến nhất là u tuyến đa hình (u hỗn hợp) và nó xảy ra chủ yếu ở phụ nữ > 40 tuổi. U tuyến đa hình có thể chuyển dạng ác tính và được phẫu thuật cắt bỏ. Nếu không bị loại bỏ hoàn toàn, loại u này có thể tái phát. Các loại u lành khác cũng được loại bỏ bằng phẫu thuật nhưng ít có khả năng chuyển dạng ác tính hoặc tái phát.

Các thay đổi tiền ác tính (loạn sản)

Các vùng màu trắng, đỏ hoặc trắng-đỏ không dễ lấy đi, tồn tại trong > 2 tuần, và không thể xác định trong khi có thể là loạn sản. Các yếu tố nguy cơ tương tự cũng có liên quan đến loạn sản như u ác tính, và loạn sản cũng có thể chuyển dạng ác tính nếu không được loại bỏ.

Bệnh bạch sản
Dấu các chi tiết
Bức ảnh này cho thấy một mảng dày của bạch sản kéo dài ở mặt trên của lưỡi.
© Springer Science+Business Media

Bạch sản là một đốm trắng phẳng có thể phát triển khi niêm mạc miệng bị kích thích trong một thời gian dài. Điểm bị kích thích có màu trắng vì nó có một lớp keratin dày lên, điều mà thông thường ít phổ biến ở niêm mạc miệng. Các yếu tố thường gắn liền với sự phát triển bạch sản miệng tự phát bao gồm sử dụng thuốc lá, uống rượu, thiếu vitamin và rối loạn nội tiết.

Bạch sản và ung thư biểu mô tế bào vảy
Dấu các chi tiết
Bạch sản là một thuật ngữ chung có thể dùng để mổ tả các mảng tăng sừng màu trắng phát triển trong miệng. Khoảng 80% là lành tính. Tuy nhiên, trong hình ảnh này, ung thư biểu mô tế bào vảy có mặt ở một trong những tổn thương bạch sản ở mặt trên của lưỡi (mũi tên).
Hình ảnh do bác sĩ nha khoa Jonathan A. Ship cung cấp.

Hồng sản là một vùng da đỏ và phẳng hoặc mòn đi, xảy ra khi niêm mạc miệng mỏng. Vùng này có màu đỏ là do các mao mạch bên dưới có thể nhìn thấy rõ hơn. Hồng sản thường tiến triển thành ung thư hơn bạch sản.

Hồng sản và ung thư biểu mô tế bào vảy
Dấu các chi tiết
Hồng sản là một thuật ngữ chung có thể dùng để mô tả các tổn thương màu đỏ, phẳng hoặc bị trợt phát triển trong miệng. Trong hình ảnh này, ung thư biểu mô tế bào vảy được bao quanh bởi một rìa hồng sản.
Hình ảnh do bác sĩ nha khoa Jonathan A. Ship cung cấp.

Tổn thương hỗn hợp cho thấy các vùng xen kẽ giữa bạch sản và hồng sản và cũng có thể là tiền thân của ung thư.

Ung thư miệng

Những người sử dụng thuốc lá, rượu hoặc cả hai có nguy cơ lớn hơn (đến 15 lần) bị ung thư miệng. Đối với những người sử dụng thuốc lá nhai và hít, tổn thương thường nằm phía trong má và môi. Ở những người khác, các vị trí phổ biến nhất của ung thư là thành bên lưỡi, sàn miệng, và miệng hầu. Nhiễm human papillomavirus (HPV), đặc biệt là type 16, là một yếu tố nguy cơ gây ung thư miệng, chủ yếu là ở amidan và nền lưỡi. Tại những vị trí này, HPV16 là nguyên nhân chính, phổ biến hơn cả hút thuốc lá. Hiếm khi, ung thư vùng miệng là do di căn từ phổi, vú hoặc tuyến tiền liệt.

Ung thư miệng có thể biểu hiện nhiều dạng khác nhau nhưng chủ yếu là các tổn thương loạn sản (ví dụ, các vùng màu trắng, đỏ, hoặc trắng đỏ hỗn hợp mà không dễ bị lấy đi).

Đánh giá U ở miệng

Lịch sử

Bệnh sử của các bệnh hiện nay bao gồm các câu hỏi về thời gian xuất hiện khối u, có đau hay không, hoặc có bất kỳ các tổn thương khác ở vùng đó (ví dụ, cắn má, bị xước do cạnh răng sắc hoặc phục hình nha khoa). Bệnh nhân được hỏi về các triệu chứng của bệnh toàn thân, đặc biệt là sút cân và mệt mỏi.

Tiền sử y khoa nên tìm kiếm các yếu tố nguy cơ đối với bệnh nấm Candida, bao gồm việc sử dụng kháng sinh gần đây, đái tháo đườngnhiễm HIV (hoặc các yếu tố nguy cơ nhiễm HIV). Ghi nhận số lượng và thời gian sử dụng rượu, thuốc lá.

Khám thực thể

Khám thực thể tập trung vào miệng và cổ, khám và sờ tất cả các vùng miệng và cổ họng, kể cả dưới lưỡi. Sờ cổ để phát hiện hạch, gợi ý bệnh nhân có thể bị ung thư hoặc nhiễm trùng mạn tính.

Các dấu hiệu cảnh báo

Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:

  • Sụt cân

  • Khối ở cổ

  • Đau họng dai dẳng

  • khó nuốt

Giải thích các dấu hiệu

Điểm chính là không nhầm lẫn ung thư miệng hoặc tổn thương loạn sản với một rối loạn lành tính. Các bác sĩ lâm sàng nên duy trì một mức độ nghi ngờ cao và chuyển bệnh nhân đi sinh thiết nếu tổn thương không hết trong vài tuần.

Xét nghiệm

Nghi ngờ nhiễm nấm Candida được xác nhận bằng cách tìm men và sợi nấm giả bằng KOH 10% ướt nạo từ vùng bị tổn thương. Có thể thấy những tổn thương cấp tính khác, đặc biệt là những tổn thương có liên quan đến chấn thương hoặc kích ứng tại chỗ. Tuy nhiên, hầu hết các tổn thương đã có trong hơn một vài tuần, và những tổn thương không biết thời gian kéo dài, nên làm sinh thiết vì ung thư rất khó loại trừ bằng lâm sàng.

Điều trị U ở miệng

Điều trị phụ thuộc vào nguyên nhân, suy giảm chức năng cũng như thẩm mỹ, đau và khả năng ác tính của khối u được chẩn đoán.

Những điểm chính

  • Hầu hết u ở miệng là lành tính.

  • Mụn cóc, nhiễm nấm Candida, và chấn thương lặp đi lặp lại là những nguyên nhân phổ biến của u lành tính.

  • Sử dụng rượu, thuốc lá và nhiễm HPV qua đường miệng là những yếu tố nguy cơ gây ung thư.

  • Vì ung thư rất khó chẩn đoán bằng lâm sàng nên sinh thiết thường là cần thiết.