Bệnh lý khớp thần kinh

(Bệnh khớp thần kinh, Bệnh khớp Charcot)

TheoApostolos Kontzias, MD, Stony Brook University School of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 11 2022

Bệnh lý khớp thần kinh là bệnh trong đó khớp bị phá huỷ nhanh do rối loạn cảm giác đau và vị trí, có thể do nhiều bệnh, hay gặp nhất là đái tháo đường và đột quy. Các biểu hiện thường gặp bao gồm sưng khớp, tràn dịch, biến dạng và mất vững. Đau có thể nhẹ không tương xứng do các bệnh lý thần kinh đi kèm. Chẩn đoán dựa trên phim X-quang. Điều trị bao gồm cố định khớp bên ngoài hoặc đôi khi cố định khớp bằng phẫu thuật để làm chậm sự tiến triển của bệnh và giảm đau.

Sinh lý bệnh của bệnh khớp thần kinh

Nhiều tình trạng dẫn đến bệnh khớp do thần kinh (xem bảng Các bệnh nền của bệnh khớp do thần kinh). Giảm cảm giác đau sâu hoặc cảm giác tư thế ảnh hưởng đến phản xạ bảo vệ bình thường của khớp làm cho người bệnh không cảm nhận được các chấn thương (đặc biệt là các vi chấn thương lặp đi lặp lại) và gãy xương nhỏ ở khớp ngoại vi. Tăng lưu lượng máu đến xương do giãn mạch phản xạ, dẫn đến hủy xương hoạt động, góp phần gây ra tổn thương xương và khớp.

Mỗi tổn thương khớp mới gây ra sự biến dạng nhiều hơn khi lành tổn thương. Tràn máu khớp và nhiều gãy xương nhỏ có thể xảy ra, đẩy nhanh sự tiến triển của bệnh. Các tổn thương thường gặp như lỏng lẻo dây chằng, giảm trương lực cơ và sự hủy sụn khớp nhanh, dẫn đến trật khớp, làm tăng tiến trình bệnh. Bệnh lý khớp thần kinh nặng có thể gây ra những biến đổi phì đại, phá hủy, hoặc cả hai.

Bảng

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh khớp thần kinh

Bệnh lý khớp thường không biểu hiện cho đến nhiều năm sau khi xuất hiện bệnh lý thần kinh, nhưng sau đó có thể tiến triển nhanh và dẫn đến tổn thương khớp hoàn toàn trong một vài tháng. Đau là triệu chứng sớm thường gặp. Tuy nhiên, vì khả năng cảm nhận đau thường bị rối loạn nên mức độ đau thường nhẹ không tương xứng so với mức độ tổn thương khớp. Tràn dịch khớp, thường là tràn máu, lỏng lẻo và mất vững khớp thường gặp ở giai đoạn đầu. Đôi khi xảy ra trật khớp cấp tính.

Trong giai đoạn sau, có thể đau trầm trọng hơn nếu bệnh gây ra phá hủy khớp nhanh (ví dụ, gãy xương quanh khớp hoặc khối máu tụ lớn). Trong những giai đoạn nặng, khớp sưng do phát triển xương quá mức và tràn dịch khớp số lượng lớn. Biến dạng do trật khớp và gãy xương di lệch. Gãy xương và can xương có thể tạo ra nhiều mảnh sụn hay xương lỏng lẻo có thể rơi vào ổ khớp, gây tiếng lạo xạo,gây khó chịu hơn với bác sĩ hơn là so với bệnh nhân.

Mặc dù nhiều khớp có thể bị tổn thương, khớp gối và cổ chân thường bị ảnh hưởng. Sự phân bố vị trí tổn thương phụ thuộc phần lớn vào bệnh nguyên. Do đó, bệnh lý thần kinh sau giang mai ảnh hưởng đến khớp gối và khớp háng, đái tháo đường ảnh hưởng đến bàn chân và khớp cổ chân. Bệnh rỗng tủy sống thường ảnh hưởng đến cột sống và khớp chi trên, đặc biệt là khớp khuỷu và khớp vai. Thông thường, chỉ có 1 khớp bị thương tổn và thường không quá 2 hoặc 3 khớp (ngoại trừ các khớp nhỏ ở bàn chân), phân bố không đối xứng.

Viêm khớp do nhiễm trùng có thể phát sinh có hoặc không có các triệu chứng toàn thân (ví dụ: sốt, khó chịu), đặc biệt là với bệnh tiểu đường và đòi hỏi phải có chỉ số nghi ngờ cao. Các cấu trúc như mạch máu, dây thần kinh và tủy sống có thể bị nén do sự phát triển quá mức của mô.

Chẩn đoán bệnh khớp thần kinh

  • X-quang

Chẩn đoán bệnh khớp thần kinh nên được xem xét ở bệnh nhân có rối loạn thần kinh trước đó, xuất hiện tổn thương hủy khớp nhưng không đau tương xứng, thường là vài năm sau bệnh lý thần kinh. Nếu nghi ngờ bệnh lý khớp thần kinh, nên chụp X-quang. Chẩn đoán bằng những bất thường điển hình trên phim X-quang ở bệnh nhân có bệnh nguy cơ và các triệu chứng cơ năng và thực thể điển hình.

Các bất thường trên X-quang trong bệnh khớp do thần kinh giai đoạn đầu thường tương tự như trong thoái hóa khớp (xem phần chẩn đoán thoái hóa khớp). Các dấu hiệu chính sau này trong quá trình tiến triển của bệnh là

  • Mảnh xương

  • Phá hủy xương

  • Tạo xương mới

  • Mất khe khớp

Có thể có tràn dịch khớp và lỏng lẻo khớp. Xương có thể bị biến dạng và hình thành xương mới liền kề với vỏ xương, bắt đầu từ trong bao khớp và thường kéo dài lên thân xương, đặc biệt là ở xương dài. Hiếm khi, sự canxi hóa và tạo xương xảy ra trong các mô mềm. Các gai xương có kích thước lớn, kỳ quái có thể có mặt ở rìa hoặc trong các khớp. Những gai xương lớn, cong (mỏ vẹt) thường phát triển ở cột sống khi không có bệnh lý cột sống trên lâm sàng.

Ở giai đoạn đầu, bệnh khớp do thần kinh có thể giống thoái hóa khớp. Tuy nhiên, bệnh khớp do thần kinh tiến triển nhanh hơn thoái hóa khớp và thường tương ứng là ít gây đau hơn.

Điều trị bệnh khớp thần kinh

  • Điều trị nguyên nhân

  • Đôi khi phẫu thuật

Điều trị các bệnh lý thần kinh có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh lý khớp, nếu phá hủy khớp vẫn còn trong giai đoạn đầu, đảo ngược một phần quá trình bệnh.

Chẩn đoán sớm các gãy xương không triệu chứng hoặc ít triệu chứng giúp điều trị sớm; cố định (bằng nẹp, bốt đặc biệt, hoặc chân giả) bảo vệ khớp khỏi tổn thương thêm, có thể ngăn sự tiến triển của bệnh. Cố định khớp thậm chí có thể ngăn ngừa bệnh khớp do thần kinh ở bệnh nhân có nguy cơ.

Đối với khớp tổn thương nhiều, làm cứng khớp bằng cố định trong, nén và ghép xương thích hợp có thể thành công. Đối với khớp háng và gối tổn thương lớn, nếu tiên lượng bệnh khớp thần kinh không tiến triển thì có thể có được kết quả tốt với thay khớp toàn bộ. Tuy nhiên,nguy cơ lớn là lỏng và trật khớp nhân tạo.

Những điểm chính

  • Bệnh khớp thần kinh là bệnh phá huỷ khớp nhanh chóng xảy ra khi cảm giác đau và vị trí bị suy giảm (ví dụ do đái tháo đường hoặc đột quỵ).

  • Điển hình là tình trạng phá hủy khớp không tương xứng với mức độ đau, thường tiến triển nhanh đến tình trạng tái cấu trúc khớp ở những giai đoạn nặng.

  • Xác nhận chẩn đoán bằng bằng chứng trên X-quang về tình trạng phá hủy khớp (ban đầu tương tự như những thay đổi quan sát thấy trong thoái hóa khớp) không tương xứng với đau trên những bệnh nhân mắc chứng rối loạn thần kinh dễ mắc phải.

  • Điều trị nguyên nhân khi có thể và bảo vệ khớp khỏi tổn thương thêm bằng các phương tiện vật lý (ví dụ, bằng cách bất động).

  • Chuyển bệnh nhân phẫu thuật khi thích hợp.