Gan Cấu trúc và Chức năng của gan Gan là cơ quan chuyển hóa phức tạp. Các tế bào gan (tế bào biểu mô gan) thực hiện các chức năng chuyển hóa của gan: Hình thành và bài tiết mật là một phần trong quá trình chuyển hóa bilirubin... đọc thêm sản xuất khoảng 500 đến 600 mL mật mỗi ngày. Dịch mật là dịch đẳng trương với huyết tương và thành phần chủ yếu là nước và các chất điện giải, nhưng cũng chứa các chất hữu cơ: muối mật, các phospholipid (Chủ yếu là Lecethin), cholesterol, bilirubin, và các chất nội sinh hoặc ngoại sinh khác, chẳng hạn như các protein điều hòa chức năng của GI và thuốc hay các sản phẩm chuyển hóa của chúng. Bilirubin Tổng quan về Chuyển hóa Bilirubin Gan là cơ quan chuyển hóa phức tạp. Các tế bào gan (tế bào biểu mô gan) thực hiện các chức năng chuyển hóa của gan: Hình thành và bài tiết mật là một phần trong quá trình chuyển hóa bilirubin... đọc thêm là một sản phẩm giáng hóa của heme từ các hồng cầu già và là sắc tố mật (màu vàng xanh).
Muối mật (axit mật) là thành phần hữu cơ chính trong dịch mật. Gan sử dụng phương pháp vận chuyển tích cực để bài tiết các muối mật vào tiểu quản mật là khe giữa các tế bào gan lân cận. Vận chuyển vào tiểu quản mật là bước cuối cùng trong hình thành dịch mật. Sau khi được tiết ra, muối mật kéo các thành phần mật khác (đặc biệt là natri và nước) vào tiểu quản mật bằng áp lực thẩm thấu. Muối mật cũng là chất tẩy rửa sinh học cho phép cơ thể bài tiết cholesterol và các chất độc (ví dụ, bilirubin, các thành phần chuyển hóa của thuốc). Chức năng của muối mật trong tá tràng để hòa tan chất béo và các vitamin tan trong dầu, tạo điều kiện cho việc tiêu hóa và hấp thu. Từ gan, mật từ các đường mật trong gan chảy vào ống gan phải và ống gan trái, sau đó vào ống gan chung.
Trong thời gian nhịn ăn, khoảng 75% dịch mật từ ống gan chung đổ vào túi mật qua ống túi mật. Phần còn lại chảy trực tiếp vào ống mật chủ (được hình thành bởi sự hợp lại của ống gan chung và ống túi mật) rồi vào tá tràng. Trong thời gian nhịn ăn, túi mật hấp thụ đến 90% lượng nước của mật, cô đặc và lưu trữ mật.
Hình ảnh gan và túi mật
|
Mật từ túi mật đổ vào ống mật chủ. Ống mật chủ hợp với ống tụy để tạo thành bóng Vater, rồi đổ vào tá tràng. Trước khi đi vào ống tụy, ống mật chủ thu nhỏ đường kính xuống ≤ 0,6 cm.
Cơ vòng Oddi, bao quanh cả ống tụy và ống mật chủ, bao gồm một cơ vòng cho mỗi ống. Thông thường, mật không chảy ngược trở lại vào ống tụy. Những cơ vòng này rất nhạy cảm với hormone cholecystokinin và các hormone khác của ruột (ví dụ như gastrin-releasing peptide) và những thay đổi của hệ cholinergic (ví dụ bằng thuốc kháng cholinergic).
Khi ăn cơ thể giải phóng các hormone trong ruột và kích thích hệ thần kinh cholinergic, làm cho túi mật co bóp và mở cơ vòng Oddi. Kết quả là, túi mật đẩy 50 đến 75% lượng mật vào tá tràng. Ngược lại, khi nhịn ăn, tăng trương lực cơ vòng giúp cho túi mật được làm đầy.
Muối mật được hấp thu kém bởi sự khuếch tán thụ động trong đoạn gần ruột non; hầu hết muối mật được hấp thu ở đoạn cuối hồi tràng, hấp thụ 90% muối mật vào tuần hoàn tĩnh mạch cửa. Trở lại gan, muối mật được tiết ra có hiệu quả, nhanh chóng thay đổi (ví dụ, chuyển sang dạng liên hợp nếu chúng còn ở dạng tự do), và bài tiết trở lại mật. Các muối mật chảy qua con đường từ gan đến ruột rồi trở về gan - tuần hoàn gan ruột- từ 10 đến 12 lần/ngày.
Hầu hết các rối loạn của đường mật đều do sỏi mật, mặc dù cơn đau quặn gan Đau ống mật không do sỏi Đau quặn mật không do sỏi là đau bụng mật mà không có sỏi mật, do rối loạn về cấu trúc hoặc chức năng; đôi khi nó được điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ túi mật nội soi hoặc cắt cơ vòng bằng nội... đọc thêm xảy ra khi không có sỏi mật và hội chứng sau mổ cắt túi mật Hội chứng sau cắt túi mật. Hội chứng sau cắt túi mật là sự xuất hiện của các triệu chứng ở bụng sau khi cắt túi mật. (Xem thêm Tổng quan về chức năng mật.) Hội chứng sau cắt túi mật xảy ra ở 5% đến 40% số bệnh nhân sau... đọc thêm xảy ra sau khi túi mật đã được loại bỏ. Sỏi mật trong túi mật (bệnh sỏi mật Viêm đường mật Sỏi mật là sự hiện diện của một hoặc nhiều sỏi mật (galli) trong túi mật. Sỏi mật có khuynh hướng không triệu chứng trên lâm sàng. Triệu chứng phổ biến nhất là đau bụng mật; sỏi mật không gây... đọc thêm ) thường không có triệu chứng. Lưu thông mật có thể bị cản trở bởi sỏi mật trong ống mật (bệnh sỏi mật Sỏi ống mật chủ và viêm đường mật Sỏi ống mật chủ là sự hiện diện của sỏi trong ống mật; các viên sỏi có thể hình thành trong túi mật hoặc trong các ống dẫn của chúng. Những viên sỏi này gây đau bụng mật, tắc nghẽn mật, viêm... đọc thêm ), gây đau hoặc gây viêm túi mật (viêm túi mật). Viêm túi mật có thể là cấp tính Viêm túi mật cấp tính Viêm túi mật cấp tính là viêm túi mật tiến triển vài giờ, thông thường vì sỏi gây tắc nghẽn ống mật. Các triệu chứng bao gồm đau hạ sườn phải và căng tức, kèm theo sốt, ớn lạnh, buồn nôn, và... đọc thêm , tiến triển qua vài giờ, hoặc mạn tính Viêm túi mật mạn tính Viêm túi mật mạn tính là viêm túi mật kéo dài gần như luôn là do sỏi mật. (Xem thêm Tổng quan về chức năng mật.) Viêm túi mật mạn tính hầu như luôn là kết quả của sỏi mật và các giai đoạn trước... đọc thêm , kéo dài trong một thời gian dài.
Sự tắc nghẽn của ống mật cũng có thể gây viêm, thường là do nhiễm khuẩn đường ruột (viêm đường mật cấp). Lưu thông mật có thể bị chặn hoặc làm chậm (gọi là bệnh ứ mật) bởi những khối u Các khối u của túi mật và ống mật U túi mật và ống mật có thể gây tắc nghẽn mật ngoài gan. Các triệu chứng có thể vắng mặt nhưng thường là có thể trạng hoặc phản ánh tắc nghẽn đường mật. Chẩn đoán dựa trên siêu âm cộng với chụp... đọc thêm hoặc, ở những bệnh nhân bị AIDS, bởi sự tắc nghẽn gây ra do nhiễm trùng cơ hội (bệnh đường mật do AIDS Bệnh đường mật do AIDS Nhiễm trùng đường mật cơ hội trên AIDS là tắc mật thứ phát do co thắt đường mật gây ra bởi nhiều loại nhiễm trùng cơ hội khác nhau. (Xem thêm Tổng quan về chức năng mật.) Trước khi điều trị... đọc thêm ). Ứ mật cũng có thể dẫn đến chứng viêm, xơ hóa và co thắt đường dẫn mật (được gọi là Viêm xơ hóa đường mật Viêm xơ đường mật Viêm xơ đường mật đề cập đến các hội chứng ứ mật mạn tính có đặc điểm viêm nhiễm trùng, xơ hóa và co thắt các ống dẫn mật trong gan và ngoài gan. Quá trình phá hủy các ống dẫn mật và dẫn đến... đọc thêm ). Thông thường, nguyên nhân gây viêm xơ hóa đường mật là không rõ (được gọi là xơ đường mật tiên phát Viêm xơ đường mật tiên phát (PSC) Viêm xơ đường mật tiên phát (PSC) là viêm sưng, xơ hóa và co thắt các ống mật mà không có nguyên nhân rõ ràng. Tuy nhiên, 80% số bệnh nhân bị PSC cũng bị bệnh viêm ruột, thường gặp nhất là viêm... đọc thêm [PSC]).