Kiềm chuyển hóa

TheoJames L. Lewis III, MD, Brookwood Baptist Health and Saint Vincent’s Ascension Health, Birmingham
Xem xét bởiGlenn D. Braunstein, MD, Cedars-Sinai Medical Center
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa đã sửa đổi Thg 3 2025
v987663_vi

Kiềm chuyển hóa là tình trạng tăng bicarbonate (HCO3) nguyên phát còn bù hoặc mất bù của tăng áp suất riêng phần carbon dioxide (Pco2); pH có thể cao hoặc gần như bình thường. Nguyên nhân thường gặp bao gồm nôn kéo dài, giảm thể tích tuần hoàn, sử dụng lợi tiểu, và hạ kali máu. Thận giảm bài xuất HCO3. Các triệu chứng và dấu hiệu trong các trường hợp nặng bao gồm nhức đầu, hôn mê và co giật. Chẩn đoándựa trên lâm sàng, khí máu động mạch, điện giải đồ. Cần điều trị nguyên nhân chính; đôi khi có chỉ định uống hoặc truyền tĩnh mạch acetazolamide hoặc axit clohiđric.

(Xem thêm Điều hòa axit-bazơ Rối loạn axit-bazơ.)

Nguyên nhân của nhiễm kiềm chuyển hóa

Kiềm chuyển hoá là tăng dự trữ bicarbonate (HCO3) do

  • Mất axit

  • Dùng thuốc kiềm

  • Sự dịch chuyển ion hydro nội bào ([H+] xảy ra trong tình trạng hạ kali máu)

  • Giữ lại HCO3

Bất kể nguyên nhân ban đầu là gì, tình trạng nhiễm kiềm chuyển hóa kéo dài cho thấy thận đã tăng O3 tăng tái hấp thu, bởi vì HCO3 bình thường được lọc tự do bởi thận và do đó được bài tiết ra ngoài. Thường gặp nhất là giảm thể tích tuần hoàn, hạ kali máu làm tăng tái hấp thu HCO3, nhưng bất kỳ trường hợp nào làm tăng aldosterone hoặc corticoid muối khoáng (làm tăng hấp thu natri [Na] và thải kali [K+] cùng H+) đều gây tăng HCO3. Do đó, hạ kali máu là nguyên nhân và hậu quả thường gặp của kiềm chuyển hóa.

Các nguyên nhân phổ biến nhất của kiềm chuyển hóa là

  • Sử dụng thuốc lợi tiểu

  • Sự suy giảm thể tích (đặc biệt khi mất axit dạ dày và clo do nôn hoặc hút dịch dạ dày)

Trong số khác nguyên nhân của kiềm chuyển hóa là những rối loạn gây ra

  • Dư thừa bicarbonate

  • Mất axit qua thận

Bảng
Bảng

Kiềm chuyển hóa có thể là

  • Đáp ứng clorid: Bao gồm tình trạng mất hoặc tiết quá nhiều Cl dẫn đến giảm trao đổi clorua với bicarbonate ở thận và sau đó là tình trạng giữ lại bicarbonate; tình trạng này thường được khắc phục bằng cách truyền tĩnh mạch dịch có NaCl.

  • Không đáp ứng Chloride: Do tình trạng tăng aldosteron dẫn đến tăng thể tích và sau đó là tăng cung cấp natri ở ống thận xa. Tái hấp thu natri ở ống thận xa dẫn đến tăng tiết ion K và H. Loại kiềm hóa này thường không cải thiện được bằng các dịch có NaCl và thường liên quan đến tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng magie (Mg) và/hoặc kali (K).

Hai dạng này có thể cùng tồn tại, ví dụ như ở những bệnh nhân bị quá tải thể tích, dùng lợi tiểu liều cao gây hạ kali máu.

Các triệu chứng và dấu hiệu của nhiễm kiềm chuyển hóa

Triệu chứng và dấu hiệu của kiềm nhẹ thường có liên quan đến nguyên nhân. Kiềm nặng hơn làm canxi ion hóa (Ca++) tăng gắn protein, dẫn đến hạ canxi máu và gây nhức đầu,thờ ơ, kích thích thần kinh cơ, đôi khi có loạn thần, co giật, động kinh. Giảm kali máu kèm theo có thể gây yếu cơ. Những bất thường về điện giải này cũng có thể làm giảm ngưỡng gây ra các triệu chứng đau thắt ngực và loạn nhịp tim.

Chẩn đoán nhiễm kiềm chuyển hóa

  • Khí máu động mạch, điện giải đồ

  • Chẩn đoán nguyên nhân (thường là lâm sàng)

  • Có khi cần đo Cl và K+ trong nước tiểu

Việc nhận biết tình trạng kiềm chuyển hóa và bù trừ hô hấp thích hợp được thảo luận trong phần Chẩn đoán rối loạn axit-bazơ và yêu cầu đo khí máu động mạch và chất điện giải trong huyết thanh (bao gồm Ca và Mg).

Xác định nguyên nhân qua hỏi bệnh sử và khám lâm sàng. Nếu tiền sử không được phát hiện và chức năng thận bình thường, nồng độ Cl và K+ trong nước tiểu sẽ được đo (các giá trị không được chẩn đoán ở bệnh thận mạn tính giai đoạn 4 hoặc 5).

  • Cl trong nước tiểu < 20 mEq/L (< 20 mmol/L) cho thấy sự tái hấp thu Cl ở thận đáng kể và do đó là nguyên nhân đáp ứng với Cl (xem bảng Nguyên nhân gây nhiễm kiềm chuyển hóa)

  • Cl niệu > 20 mEq/L (> 20 mmol/L) gợi ý một dạng không phản ứng với Cl-.

K trong nước tiểu và có hoặc không có tăng huyết áp giúp phân biệt các alkalose không đáp ứng với clorua.

  • K trong nước tiểu < 30 mEq/ngày (< 30 mmol/ngày) biểu thị hạ kali máu hoặc lạm dụng thuốc nhuận tràng.

  • K niệu > 30 mEq/ngày (> 30 mmol/ngày) ở bệnh nhân không tăng huyết áp cho thấy tình trạng lạm dụng thuốc lợi tiểu, hội chứng Bartter hoặc hội chứng Gitelman.

  • K trong nước tiểu > 30 mEq/ngày (> 30 mmol/ngày) ở bệnh nhân tăng huyết áp cần được đánh giá về cường aldosteron, dư thừa corticoid khoáng và bệnh mạch máu thận.

Các xét nghiệm ở bệnh nhân cao huyết áp thường bao gồm hoạt động renin huyết tương và nồng độ aldosterone và cortisol (xem Chẩn đoán Hội chứng CushingChẩn đoán Aldosteron nguyên phát).

Điều trị nhiễm kiềm chuyển hóa

  • Nguyên nhân được điều trị

  • Truyền tĩnh mạch dung dịch muối 0,9% với trường hợp kiềm chuyển hóa có đáp ứng Chloride.

  • Bổ sung kali và/hoặc thuốc lợi tiểu giữ kali cho tình trạng kiềm chuyển hóa không đáp ứng với clorua

Điều trị nguyên nhân chính, chú ý điều trị tình trạng giảm thể tích và hạ kali máu.

Bệnh nhân nhiễm kiềm chuyển hoá có đáp ứng Chloride được truyền tĩnh mạch muối 0,9%; tốc độ truyền thường lớn hơn tốc độ nước tiểu, những dịch thải nhạy hoặc không nhạy cảm khác 50-100 mL/h, cho đến khi Cl niệu tăng lên > 25 mEq/L (> 25 mmol/L) và pH nước tiểu được đưa về bình thường do tăng bicarbonat niệu.

Bệnh nhân bị kiềm chuyển hóa không đáp ứng với clorua hiếm khi được cải thiện chỉ bằng cách bù nước và cần phải điều trị nguyên nhân cụ thể. Thông thường cần bổ sung kali và magie và/hoặc thuốc lợi tiểu giữ kali.

Bệnh nhân bị kiềm chuyển hóa nặng (ví dụ pH > 7,6) đôi khi cần phải điều chỉnh mức độ pH máu gấp. Lọc máu hoặc chạy thận nhân tạo là một lựa chọn, đặc biệt nếu quá tải thể tích và rối loạn chức năng thận. Acetazolamide 250 đến 375 mg uống hoặc tiêm tĩnh mạch một lần hoặc hai lần một ngày tăng bài tiết HCO3 nhưng cũng có thể đẩy nhanh quá trình mất nước tiểu của K+ và phốt phát (PO4); những bệnh nhân quá tải về thể tích bị nhiễm kiềm chuyển hóa do lợi tiểu và những bệnh nhân bị nhiễm kiềm chuyển hóa posthypercapnic có thể có lợi đặc biệt.

Ở những bệnh nhân bị kiềm chuyển hóa nặng (pH > 7,6) và suy thận mà không thể hoặc không nên lọc máu, truyền tĩnh mạch axit hydrochloric trong dung dịch pha loãng 0,1 đến 0,2 lần bình thường được cho là an toàn và hiệu quả; chú ý truyền qua catheter tĩnh mạch trung tâm vì đó là dung dịch cao phân tử và dễ gây xơ tĩnh mạch ngoại vi. Liều dùng từ 0,1 đến 0,2 mmol/kg/h. Cần thường xuyên theo dõi khí máu động mạch và điện giải đồ.

Những điểm chính

  • Nhiễm kiềm chuyển hóa khi tích tụ bicacbonat (HCO3) do mất axit, bù kiềm, trao đổi H+ nội bào, hoặc giữ HCO3 ở thận.

  • Kiềm chuyển hóa do mất hoặc thải quá nhiều Clo được gọi là có đáp ứng Chloride.

  • Nguyên nhân phổ biến nhất gây kiềm chuyển hóa đáp ứng với clorua là mất thể tích (đặc biệt khi liên quan đến mất axit dạ dày và clorua (Cl) do nôn mửa liên tục hoặc hút dịch mũi dạ dày) và sử dụng thuốc lợi tiểu.

  • Kiểm tra và điều trị nguyên nhân và truyền tĩnh mạch dung dịch muối sinh lý 0,9% cho những bệnh nhân bị kiềm chuyển hóa có đáp ứng với clorua.

  • Kiềm chuyển hóa không đáp ứng với clorua thường là do tác dụng tăng lên của aldosterone.

  • Kiểm tra và điều trị nguyên nhân và cho bệnh nhân bổ sung kali và/hoặc thuốc lợi tiểu giữ kali khi cần thiết.

quizzes_lightbulb_red
Test your KnowledgeTake a Quiz!