Trẻ sơ sinh non tháng

TheoArcangela Lattari Balest, MD, University of Pittsburgh, School of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 11 2023

Trẻ sinh ra trước tuần thứ 37 của thai kỳ được coi là sinh non.

Vào năm 2021 ở Hoa Kỳ, 10,48% ca sinh là sinh non (1) và vào năm 2018, 26,53% ca sinh là sinh non (tăng đáng kể từ 26% vào năm 2017) (2). Trẻ sinh non, thậm chí cả trẻ sinh non muộn có kích thước tương đương một số trẻ đủ tháng, có tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao hơn so với trẻ đủ tháng vì trẻ sinh non.

Sinh non được xác định theo tuổi thai lúc sinh.

Trước đây, bất kỳ trẻ sơ sinh nào có cân nặng < 2,5 kg đều được coi là sinh non. Mặc dù trẻ sinh non có xu hướng nhỏ bé nhưng định nghĩa dựa trên cân nặng này thường không chính xác vì nhiều trẻ có cân nặng < 2,5 kg là đủ tháng hoặc già tháng nhưng lại nhỏ so với tuổi thai.

Tuổi thai

Tuổi thai được định nghĩa là số tuần tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh nguyệt bình thường cuối cùng của người mẹ đến ngày sinh con. Chính xác hơn, tuổi thai là chênh lệch giữa 14 ngày trước ngày thụ thai và ngày sinh. Tuổi thai không phải là tuổi thai thực sự của bào thai, nhưng nó là tiêu chuẩn chung của các bác sĩ sản khoa và sơ sinh để thảo luận về sự trưởng thành của bào thai.

Sinh trước 37 tuần tuổi thai được coi là sinh non. Trẻ sinh non được phân loại thêm là (3)

Trọng lượng cơ thể

Trẻ sinh non có xu hướng nhỏ hơn trẻ đủ tháng. Biểu đồ tăng trưởng Fenton đưa ra đánh giá chính xác hơn về sự tăng trưởng so với tuổi thai (xem hình Biểu đồ tăng trưởng Fenton cho bé trai sinh nonBiểu đồ tăng trưởng Fenton cho bé gái sinh non).

Trẻ sinh non được phân loại theo cân nặng khi sinh:

  • < 1000 g: Trọng lượng sơ sinh cực kỳ thấp (ELBW)

  • 1000 đến 1499 g: Trọng lượng sơ sinh rất thấp (VLBW)

  • 1500 đến 2500 g: Trọng lượng sơ sinh thấp (LBW)

Tài liệu tham khảo chung

  1. 1. Hamilton BE, Martin JA, Osterman MJ: Births: Provisional Data for 2021. National Center for Health Statistics. National Vital Statistics System, Vital Statistics Rapid Release Program, no 20. Hyattsville, MD. National Center for Health Statistics. 2022.

  2. 2. Martin JA, Hamilton BE, Osterman MJ: Births in the United States, 2018. NCHS Data Brief, no 346. Hyattsville, MD. National Center for Health Statistics. 2019.

  3. 3. Howson CP, Kinney MV, Lawn JE, editorBorn Too Soon: The Global Action Report on Preterm Birth. New York, March of Dimes, PMNCH, Save the Children, World Health Organization, 2012.

Nguyên nhân sinh non tháng

Nguyên nhân đẻ non bao gồm

  • Được chỉ định vì nguy cơ hoặc biến chứng sản khoa

  • Tự phát do sinh non

Nguy cơ hoặc biến chứng sản khoa

Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) khuyến cáo sinh non muộn trong các tình trạng như đa thai có biến chứng, tiền sản giật, nhau tiền đạo/nhau cài răng lượcvỡ ối trước khi chuyển dạ (1).

ACOG khuyến cáo nên chủ động sinh non ở 32 tuần tuổi trong những trường hợp đa thai có biến chứng. Việc quyết định sinh sớm hơn 32 tuần được thực hiện trên cơ sở từng trường hợp cụ thể để quản lý các biến chứng nặng nề với vả mẹ và thai nhi.

Sinh non tự phát

Ở một số bệnh nhân, sinh non tự phát có thể có hoặc không có nguyên nhân rõ ràng ngay lập tức (ví dụ: nhiễm trùng [xem Nhiễm trùng ốibệnh truyền nhiễm trong thai kỳ], nhau bong non). Có nhiều yếu tố nguy cơ sinh non (2):

Tiền sử sản khoa hoặc tiền sử phụ khoa:

Các yếu tố nguy cơ sản khoa liên quan đến lần mang thai hiện tại:

Đa thai là một yếu tố nguy cơ sinh non quan trọng; 59% song thai và > 98% đa thai nhiều hơn hai thai là đẻ non. Nhiều trẻ trong số này rất non tháng; 10,7% trường hợp sinh đôi, 37% trường hợp sinh ba và > 80% trường hợp đa thai bậc cao được sinh ở thời điểm thai kỳ < 32 tuần (4).

Các yếu tố nguy cơ về lối sống hoặc nhân khẩu học:

Không rõ mức độ nguy cơ mà một số yếu tố nguy cơ về lối sống hoặc nhân khẩu học này góp phần độc lập với tác động của các yếu tố đó đối với các yếu tố nguy cơ khác (ví dụ: dinh dưỡng, tiếp cận chăm sóc y tế).

Tài liệu tham khảo về căn nguyên

  1. 1. American College of Obstetricians and Gynecologists’ Committee on Obstetric Practice, Society for Maternal-Fetal Medicine: Medically Indicated Late-Preterm and Early-Term Deliveries: ACOG Committee Opinion, Number 831. Obstet Gynecol 138(1):e35-e39, 2021 doi: 10.1097/AOG.0000000000004447

  2. 2. National Institute of Child Health and Human Development: What are the risk factors for preterm labor and birth? Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2023.

  3. 3. Saccone G, Perriera L, Berghella V: Prior uterine evacuation of pregnancy as independent risk factor for preterm birth: A systematic review and metaanalysis. Am J Obstet Gynecol 214(5):572-591, 2016 doi: 10.1016/j.ajog.2015.12.044

  4. 4. Hamilton BE, Martin JA, Osterman MJ: Births: Provisional Data for 2021. National Center for Health Statistics. National Vital Statistics System, Vital Statistics Rapid Release Program, no 20. Hyattsville, MD. National Center for Health Statistics. 2022.

Các biến chứng của sinh non tháng

Tỷ lệ và mức độ nghiêm trọng của các biến chứng của trẻ non tháng tăng lên theo độ giảm của tuổi thai. Một số biến chứng (ví dụ viêm ruột hoại tử, bệnh võng mạc do non tháng, loạn sản phế quản phổi, xuất huyết não thất) không phổ biến ở trẻ non tháng muộn.

Hầu hết các biến chứng liên quan đến rối loạn chức năng của hệ thống cơ quan chưa trưởng thành. Trong một số trường hợp, các biến chứng cso thể được điều trị khỏi hoàn toàn; nhưng một rối loạn khác có thể tồn tại vĩnh viễn.

Hệ thần kinh trung ương (CNS)

Các biến chứng hệ thần kinh bao gồm

Trẻ sinh ra trước 34 tuần tuổi thai có phối hợp kém về phản xạ mút và nuốt và cần được nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch hoặc bằng nuôi dưỡng qua ống thông. Khi nào bắt đầu cho ăn bằng đường miệng dựa trên biểu hiện của trẻ sơ sinh về các dấu hiệu sẵn sàng cho ăn, sự ổn định sinh lý và không cần hỗ trợ hô hấp nâng cao (ví dụ: máy thở, ống thông mũi lưu lượng cao, CPAP). Việc đánh giá các dấu hiệu sẵn sàng cho ăn không bắt đầu cho đến sau 32 tuần tuổi sau kỳ kinh nguyệt.

Tính không trưởng thành của trung tâm hô hấp ở thân não dẫn đến ngừng thở (ngưng thở trung tâm). Ngưng thở cũng có thể do tắc nghẽn thanh quản (ngưng thở tắc nghẽn). Có thể do cả hai vấn đề (hỗn hợp ngưng thở).

Vùng tế bào mầm quanh não thất (khối tế bào phôi nhiều nằm trên nhân đuôi ở thành bên của não thất bên của thai nhi) dễ bị xuất huyết, tình trạng này có thể lan vào não thất (xuất huyết não thất). Nhồi máu vùng chất trắng xung quanh (nhuyễn não chất trắng quanh não thất) cũng có thể xảy ra vì những lý do chưa được hiểu rõ. Hạ huyết áp, tưới máu não không đủ hoặc không ổn định với huyết áp đạt đỉnh (khi bơm dịch vào tĩnh mạch nhanh) có thể góp phần gây nhồi máu não hoặc xuất huyết. Tổn thương não chất trắng dẫn đến nguy cơ bại não và chậm phát triển thần kinh.

Trẻ sinh non, đặc biệt là những trẻ có tiền sử nhiễm trùng huyết, viêm ruột hoại tử, hạ oxy máu, xuất huyết trong não thất và/hoặc xuất huyết quanh não thất hoặc nhuyễn chất trắng, có nguy cơ chậm phát triển và chậm nhận thức (xem thêm Phát triển ở thời thơ ấu). Những trẻ sơ sinh này cần được theo dõi cẩn thận trong những năm đầu tiên của cuộc đời để xác định sự thiếu hụt về thính giác, thị lực và chậm phát triển thần kinh. Cần chú ý cẩn thận đến các cột mốc phát triển, trương lực cơ, kỹ năng ngôn ngữ, và sự phát triển thể chất (cân nặng, chiều dài, và chu vi đầu). Trẻ sơ sinh bị giảm chức năng thị giác nên được chuyển tới bác sĩ nhãn khoa nhi khoa. Trẻ sơ sinh bị chậm phát triển thần kinh và thính giác (bao gồm tăng trương lực cơ và phản xạ bảo vệ bất thường) nên được chuyển đến các chương trình can thiệp sớm cung các biện pháp hỗ trợ về thể chất, nghề nghiệp và ngôn ngữ. Trẻ sơ sinh có vấn đề nặng về phát triển thần kinh có thể cần được chuyển đến bác sĩ chuyên khoa thần kinh nhi khoa hoặc bác sĩ nhi khoa về phát triển thần kinh.

Mắt

Các biến chứng mắt bao gồm

Phát triển của các mạch máu võng mạc vẫn tiếp tục cho đến gần đủ tháng. Sinh non và các liệu pháp cần thiết để điều trị (ví dụ: bổ sung oxy) có thể cản trở quá trình tạo mạch bình thường, dẫn đến sự phát triển mạch máu bất thường và đôi khi bị khiếm khuyết về thị lực, bao gồm mù lòa. Tỷ lệ ROP tăng tỷ lệ nghịch với tuổi thai. Bệnh thường biểu hiện ở thời điểm thai nhi được 32 tuần đến 34 tuần.

Tỉ lệ cận thị và lác tăng lên không phụ thuộc vào ROP.

Nhiễm trùng

Các biến chứng nhiễm trùng bao gồm:

Nhiễm trùng huyết hoặc viêm màng não có khả năng xảy ra ở trẻ sinh non cao hơn khoảng 4 lần, xảy ra ở gần 25% số trẻ sơ sinh rất nhẹ cân. Khả năng tăng lên là do đặt ống thông nội mạch và ống nội khí quản, các vùng da bị tổn thương và nồng độ globulin miễn dịch trong huyết thanh giảm rõ rệt (xem Chức năng miễn dịch ở trẻ sơ sinh).

Phổi

Các biến chứng về phổi bao gồm:

Sản xuất chất surfactant thường không đủ để giữ phế nang không bị xẹp lại và xẹp phổi, dẫn đến hội chứng suy hô hấp cấp (bệnh màng trong). Nhiều yếu tố khác có thể góp phần gây suy hô hấp trong tuần đầu tiên sau sinh. Bất kể nguyên nhân là gì, nhiều trẻ cực kỳ non tháng và rất non tháng đều bị suy hô hấp dai dẳng và cần được hỗ trợ hô hấp liên tục. Một số trẻ sơ sinh được cai máy thở thành công trong vòng vài tuần; một số khác phát triển bệnh phổi mãn tính (loạn sản phế quản phổi) cần được hỗ trợ hô hấp kéo dài sử dụng gọng mũi thở lưu lượng cao, thở áp lực dương liên tục (CPAP) hoặc hỗ trợ thông khí không xâm lấn khác, hoặc thở máy. Hỗ trợ hô hấp có thể được cung cấp oxy khí trời hoặc hỗ trợ oxy. Nếu cần bổ sung oxy, nên sử dụng nồng độ oxy thấp nhất có thể duy trì mức bão hòa oxy mục tiêu từ 90% đến 95% (xem bảng Mục tiêu bão hòa oxy ở trẻ sơ sinh).

Điều trị dự phòng bằng nirsevimab đối với vi rút hợp bào hô hấp (RSV) rất quan trọng đối với trẻ sơ sinh mắc bệnh phổi mạn tính. Palivizumab có thể được sử dụng nếu không có nirsevimab.

Ngoài ra, Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ khuyến nghị tiêm chủng RSV cho bà mẹ trong khoảng thời gian từ 32 đến 36 6/7 tuần của thai kỳ, nếu dự kiến sinh trong mùa RSV, để ngăn ngừa nhiễm trùng đường hô hấp dưới RSV ở trẻ sơ sinh (1). Tuy nhiên, vẫn chưa chắc chắn liệu việc tiêm vắc xin RSV ở người mẹ có mang lại lợi ích cho nhiều trẻ sinh non hay không vì thời điểm sinh có thể không cho phép tiêm vắc xin kịp thời.

Đường tiêu hóa

Các biến chứng đường tiêu hóa bao gồm

  • Không dung nạp thức ăn, tăng nguy cơ hít

  • Viêm ruột hoại tử

Không dung nạp thức ăn là cực kỳ phổ biến vì trẻ sinh non có dạ dày nhỏ, phản xạ bú và nuốt chưa trưởng thành, nhu động dạ dày và ruột không đầy đủ. Những yếu tố này cản trở khả năng dung nạp thức ăn cả đường miệng và qua xông dạ dày và nguy cơ hít. Khả năng chịu ăn thường tăng lên theo thời gian.

Viêm ruột hoại tử thường biểu hiện bằng phân có máu, không dung nạp thức ăn và bụng chướng căng, ấn đau. Viêm ruột hoại tử là cấp cứu ngoại khoa phổ biến nhất ở trẻ non tháng. Các biến chứng của viêm ruột hoại tử sơ sinh bao gồm thủng ruột với tràn khí trong ổ bụng, tạo áp xe ổ bụng, hẹp ruột, hội chứng ruột ngắn, nhiễm trùng huyết và tử vong.

Tim mạch

Tỷ lệ chung của dị tật tim bẩm sinh cấu trúc ở trẻ sinh non là thấp. Các biến chứng tim mạch phổ biến nhất là

Ống động mạch có nhiều khả năng không đóng lại sau khi sinh ở trẻ sinh non. Tỷ lệ còn tồn ống động mạch tăng cùng với mức độ non của trẻ; ống động mạch kéo dài xảy ra ở gần một nửa số trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh < 1750 g và khoảng 80% trong số trẻ < 1000 g. Khoảng 1/3 đến một nửa số trẻ sơ sinh có ống động mạch có triệu chứng suy tim. Trẻ sinh non 29 tuần tuổi thai khi sinh mắc hội chứng suy hô hấp có nguy cơ mắc bệnh PDA có triệu chứng từ 65% đến 88%. Nếu trẻ sơ sinh có tuổi thai ≥ 30 tuần khi sinh, ống động mạch sẽ tự đóng ở 98% vào thời điểm xuất viện.

Tại thận

Các biến chứng thận bao gồm

Chức năng thận còn hạn chế, do đó khả năng hấp thu và bài tiết của ống thận đều kém.

Nhiễm toan chuyển hóa và chậm tăng trưởng có thể là kết quả từ chức năng thận chưa trưởng thành dẫn đến không bài tiết được các axit cố định, khiến chúng tích tụ với đồ ăn công thức giàu protein, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển của xương. Natri và bicarbonate bị mất trong nước tiểu.

Chuyển hóa

Các biến chứng trao đổi chất bao gồm

  • Hạ đường huyết và tăng đường huyết

  • Tăng bilirubin máu

  • Bệnh xương chuyển hoá (loãng xương của trẻ đẻ non)

  • Suy giáp bẩm sinh

Hạ đường huyếttăng đường huyết được thảo luận ở nơi khác.

Tăng bilirubin máu xảy ra phổ biến hơn ở trẻ non tháng so với trẻ đủ tháng và bệnh vàng da nhân (tổn thương não do tăng bilirubin máu) có thể xảy ra ở nồng độ bilirubin huyết thanh thấp tới 10 mg/dL (170 micromol/L) ở trẻ nhỏ, ốm yếu, non tháng. Nồng độ bilirubin cao hơn một phần có thể do cơ chế bài tiết của gan không được phát triển đầy đủ cho sự sống ngoài tử cung, bao gồm thiếu hụt hấp thu bilirubin từ huyết thanh, sự liên hợp của nó với bilirubin diglucuronid và sự bài tiết của nó vào cây mật. Giảm nhu động ruột cho phép nhiều bilirubin đã được liên hợp bị cắt sự liên hợp trong đường ruột bằng enzym beta-glucuronidase, làm cho bilirubin không liên hợp tăng lên (tăng tái tuần hoàn ruột gan). Ngược lại, việc cho trẻ ăn sớm làm tăng nhu động ruột và làm giảm sự hấp thụ bilirubin và do đó có thể làm giảm đáng kể tỷ lệ và mức độ nghiêm trọng của vàng da sinh lý. Đôi khi, kẹp rốn muộn (có một số lợi ích và đang được khuyến cáo) có thể làm tăng nguy cơ tăng bilirubin do có truyền các tế bào hồng cầu, từ đó làm tăng sự phân hủy hồng cầu và sản xuất nhiều bilirubin hơn.

Bệnh xương chuyển hóa với bệnh loãng xương là phổ biến, đặc biệt ở trẻ sơ sinh cực non. Nguyên nhân là do lượng canxi, phốt pho và vitamin D không đủ và trở nên trầm trọng hơn khi dùng thuốc lợi tiểu và corticosteroid. Sữa mẹ cũng thiếu canxi và phốt pho và cần được bổ sung bằng sữa mẹ tăng cường. Bổ sung vitamin D là cần thiết để tối ưu hóa sự hấp thu canxi của ruột và bài tiết qua đường tiểu.

Suy giáp bẩm sinh, có đặc trưng là thyroxine (T4) thấp và nồng độ hormone kích thích tuyến giáp (TSH) tăng cao, phổ biến hơn ở trẻ đẻ non so với trẻ đủ tháng. Ở trẻ sơ sinh có cân nặng < 1500 g, TSH có thể bị trì hoãn trong vài tuần, đòi hỏi phải sàng lọc lặp lại để phát hiện. Hạ thyroxin máu thoáng qua, đặc trưng bởi nồng độ T4 thấp và TSH bình thường, rất phổ biến ở trẻ cực non; điều trị bằng L-thyroxine không có lợi (2).

Điều hòa thân nhiệt

Điều hòa thân nhiệt có những biến chứng sau

Trẻ sinh non có tỷ lệ diện tích bề mặt cơ thể so với thể tích lớn đặc biệt. Do đó, khi tiếp xúc với nhiệt độ môi trường thấp hơn nhiệt độ môi trường tối ưu, chúng nhanh chóng mất nhiệt và khó giữ nhiệt độ cơ thể. Môi trường nhiệt độ tối ưu là nhiệt độ môi trường mà khi đó nhu cầu trao đổi chất (tiêu tốn năng lượng) để duy trì nhiệt độ cơ thể bình thường (36,5 đến 37,5°C trực tràng) là thấp nhất.

Tài liệu tham khảo về biến chứng

  1. 1. American College of Obstetricians and Gynecologists: Practice Advisory: Maternal Respiratory Syncytial Virus Vaccination. 2023. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2023.

  2. 2. Wassner AJ, Brown RS: Hypothyroidism in the newborn period. Curr Opin Endocrinol Diabetes Obes 20(5): 449–454, 2013. doi: 10.1097/01.med.0000433063.78799.c2

Chẩn đoán sinh non tháng

  • Tiền sử sản khoa và các thông số sinh lý sau sinh

  • Siêu âm thai

  • Xét nghiệm sàng lọc cho các biến chứng

Chẩn đoán sinh non phụ thuộc vào ước tính chính xác nhất về tuổi thai. Tuổi thai lúc mới sinh thường được xác định bằng cách đếm số tuần tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh nguyệt bình thường cuối cùng của người mẹ đến ngày sinh. Tuy nhiên, việc xác định tuổi thai dựa vào kỳ kinh cuối cùng có thể không chính xác nếu bệnh nhân mang thai có kinh nguyệt không đều. Ngoài ra, đôi khi ngày thụ thai gần đúng hoặc chính xác được biết nếu sử dụng xét nghiệm rụng trứng hoặc công nghệ hỗ trợ sinh sản. Ngoài ra, dựa trên siêu âm thai nhi đầu tiên trong thai kỳ, tuổi thai ước tính có thể thay đổi nếu kết quả siêu âm khác xa so với ngày kinh nguyệt. Sau khi sinh, khám đặc điểm của trẻ sơ sinh cũng cho phép các bác sĩ lâm sàng ước lượng tuổi thai, có thể được khẳng định bằng điểm Ballard.

Cùng với xét nghiệm thích hợp cho bất kỳ vấn đề hoặc rối loạn nào được xác định, các đánh giá định kỳ bao gồm đo độ bão hòa oxy trong mạch, công thức máu, điện giải, nồng độ bilirubin, cấy máu, canxi huyết thanh, phosphatase kiềm và nồng độ phốt pho (để sàng lọc loãng xương ở trẻ non tháng), đánh giá thính giác, siêu âm sọ não (để sàng lọc xuất huyết trong não thất và nhuyễn chất trắng quanh não thất) và được bác sĩ nhãn khoa sàng lọc bệnh võng mạc do sinh non (tùy thuộc vào tuổi thai). Cần đo cân nặng và vẽ biểu đồ tăng trưởng hàng ngày. Chiều dài và chu vi vòng đầu phải được vẽ trên biểu đồ tăng trưởng thích hợp định kỳ hàng tuần. Cần đo chu vi vòng đầu thường xuyên hơn, đôi khi hàng ngày, nếu lo ngại não úng thủy.

Giống như trẻ sơ sinh lớn hơn, các xét nghiệm sàng lọc thông thường được thực hiện từ 24 đến 48 giờ. Không giống như trẻ đủ tháng, trẻ sinh non, đặc biệt là trẻ cực non, có tỷ lệ kết quả dương tính giả cao (1). Tăng nhẹ một số axit amin và hồ sơ acylcarnitine bất thường là phổ biến và thường có tăng nhẹ của nồng độ 17-hydroxyprogesterone và nồng độ thyroxine (T4) thấp (thường có nồng độ hormone kích thích tuyến giáp bình thường). Trẻ sơ sinh cực non và rất non có nguy cơ biểu hiện suy giáp trạng bẩm sinh muộn hơn. Vì vậy cần được kiểm tra định kỳ lặp lại.

X-quang, thường thu được vì những lý do khác, có thể cho thấy trẻ có loãng xương và/hoặc các vết gãy xương không mong muốn khác. Quét DXA và chụp quét siêu âm định lượng có thể phát hiện tình trạng loãng xương ở trẻ. Tuy nhiên, không được sử dụng rộng rãi trong lâm sàng.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

  1. 1. Clark RH, Kelleher AS, Chace DH, Spitzer AR: Gestational age and age at sampling influence metabolic profiles in premature infants. Pediatrics 134(1):e37–e46, 2014. doi: 10.1542/peds.2014-0329

Trẻ sinh non tháng, rất non tháng và cực non tháng

Trẻ sinh non là trẻ được sinh ra trước 37 tuần tuổi thai. Trẻ rất non là sinh từ 28 đến 31 6/7 tuần. Trẻ cực non là sinh 28 tuần.

Các biến chứng

Tỷ lệ mắc và mức độ nặng của các biến chứng của trẻ non tháng tăng lên theo độ giảm của tuổi thai. Một số biến chứng (ví dụ, viêm ruột hoại tử, bệnh võng mạc do non tháng, loạn sản phế quản phổi, xuất huyết não thất) xảy ra chủ yếu ở trẻ sơ sinh < 34 tuần.

Triệu chứng và Dấu hiệu

Trẻ đẻ non thường nhỏ, cân nặng thường < 2,5 kg, và có da mỏng, bóng và hồng thông qua đó dễ nhìn thấy các tĩnh mạch dưới da. Có ít mỡ dưới da, tóc, hay sụn tai ngoài. Vận động tự nhiên và trương lực cơ giảm, và các chi cực không được giữ ở vị trí gấp điển hình như trẻ đủ tháng.

Ở trẻ trai, bìu có thể có ít nếp nhăn, và tinh hoàn có thể chưa xuống đến hạ nang. Ở trẻ gái, môi lớn chưa trùm kín môi nhỏ.

Các phản xạ phát triển ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào tuổi thai. Phản xạ Moro bắt đầu từ tuần thứ 28 đến tuần thứ 32 của thai kỳ và được hình thành rõ ràng ở tuần thứ 37. Phản xạ cầm nắm bắt đầu từ 28 tuần và được hình thành tốt ở 32 tuần. Phản xạ trương lực cổ bắt đầu từ 35 tuần và rõ nhất ở thời điểm sau sinh 1 tháng.

Đánh giá

  • Điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực sơ sinh (NICU)

  • Sàng lọc các biến chứng

Giám sát và sàng lọc trong NICU

Khám sức định kỳ cho trẻ đẻ non là rất quan trọng trong việc theo dõi sự tiến triển của trẻ và phát hiện ra các vấn đề mới (ví dụ như các vấn đề hô hấp, vàng da). Đánh giá cân nặng thường xuyên là cần thiết để tối ưu hóa liều lượng thuốc và việc cho ăn dựa trên cân nặng.

  • Tăng trưởng và dinh dưỡng: Trọng lượng cần được theo dõi chặt chẽ, đặc biệt trong những ngày đầu sau sinh khi có sự bài tiết của khối lượng dịch ngoại bào; mất nước với tình trạng tăng natri máu có thể phát triển. Cân nặng nên được đánh giá hàng ngày nếu dung nạp được; chiều dài và chu vi đầu cần được đánh giá hàng tuần và vẽ lên biểu đồ tăng trưởng.

  • Sự mất cân bằng điện giải: Các chất điện giải trong huyết thanh, nồng độ glucose, canxi và photphat cần phải được đo định kỳ, đặc biệt là ở những trẻ sơ sinh được truyền dịch và/hoặc dinh dưỡng qua đường tĩnh mạch (ví dụ: trẻ rất non tháng và cực non tháng) và trong quá trình dùng lợi tiểu trong những ngày đầu đời (xem thêm Các rối loạn chuyển hóa, điện giải và nhiễm độc ở trẻ sơ sinh).

  • Tình trạng hô hấp: Đo độ bão hòa oxy trong mạch và đôi khi PCO2 qua da hoặc cuối thì thở ra được theo dõi liên tục; xét nghiệm khí máu động mạch hoặc mao mạch được thực hiện khi cần thiết (xem thêm Các vấn đề về hô hấp ở trẻ sơ sinh).

  • Ngưng thở và nhịp tim chậm: Việc theo dõi nhịp tim, hô hấp bên ngoài thường được tiếp tục cho đến gần thời điểm xuất viện.

  • Các bất thường về huyết học: Công thức máu (CBC), số lượng hồng cầu lưới và công thức bạch cầu được thực hiện ban đầu và định kỳ để phát hiện những bất thường thường gặp (xem thêm Rối loạn huyết học chu sinh).

  • Tăng bilirubin máu: Đo nồng độ bilirubin qua da và/hoặc trong huyết thanh đẻ phát hiện các bất thường.

  • Nhiễm trùng toàn thân: CBC có công thức bạch cầu đếm thủ công, protein phản ứng C, cấy máu và đôi khi nồng độ procalcitonin thường được thực hiện để tạo điều kiện phát hiện sớm nhiễm trùng sơ sinh.

  • Nhiễm trùng thần kinh trung ương: Chọc dò dịch não tủy thường được chỉ định cho trẻ sơ sinh có dấu hiệu rõ ràng về nhiễm trùng và/hoặc có triệu chứng thần kinh như co giật, cấy máu dương tính, hoặc nhiễm trùng không đáp ứng với điều trị kháng sinh.

  • Xuất huyết não thất (IVH): Siêu âm qua thóp sàng lọc được chỉ định từ 7 đến 10 ngày sau sinh ở trẻ non tháng < 32 tuần có các tình trạng nặng (ví dụ: IVH đã biết, tim mạch-hô hấp không ổn định và/hoặc chuyển hóa không ổn định).

Xuất huyết trong não thất ở trẻ cực kỳ non tháng có thể không biểu hiện lâm sàng và nên siêu âm sọ não thường quy cho những trẻ này. Tỷ lệ mắc IVH giảm khi tuổi thai tăng lên, vì vậy việc sàng lọc thường quy trẻ sinh non > 32 tuần không được coi là hữu ích trừ khi tình trạng này có các biến chứng đáng kể. Hầu hết xuất huyết não xảy ra trong tuần đầu tiên sau sinh, và trừ khi có dấu hiệu lâm sàng của xuất huyết, thời gian chỉ định siêu âm sàng lọc tốt nhất là từ 7 đến 10 ngày tuổi. Trẻ sơ sinh cực kỳ non tháng có nguy cơ mắc chứng nhuyễn chất trắng quanh não thất, bệnh này có thể phát triển muộn hơn trong quá trình điều trị (có hoặc không có xuất huyết), vì vậy trẻ nên được siêu âm sọ não khi được 6 tuần tuổi. Trẻ sơ sinh bị xuất huyết vừa hoặc nặng nên được theo dõi bằng cách đo chu vi đầu và siêu âm sọ não định kỳ để phát hiện và theo dõi não úng thủy; không có lợi ích gì khi siêu âm lặp lại ở trẻ sơ sinh bị xuất huyết nhẹ mà không có dấu hiệu lâm sàng (1). Tuy nhiên, nên theo dõi sát sự phát triển thần kinh cho trẻ sơ sinh bị xuất huyết.

Các kiểm tra sau

Việc sàng lọc bệnh võng mạc ở trẻ sinh non tháng được khuyến nghị cho trẻ sơ sinh có cân nặng ≤ 1500 g hoặc ≤ 30 tuần tuổi thai và đối với trẻ lớn hơn và trưởng thành hơn có diễn biến lâm sàng không ổn định. Khám đầu tiên được thực hiện theolịch dựa trên tuổi thai của trẻ sơ sinh (xem phần Bảng sàng lọc bệnh võng mạc ở trẻ đẻ non). Khám định kỳ thường được lặp lại ở khoảng cách từ 1 đến 3 tuần một lần tùy thuộc vào kết quả ban đầu và tiếp tục cho đến khi võng mạc trưởng thành. Một số trẻ được kiểm tra sàng lọc sau khi trẻ xuất viện. Việc sử dụng chụp võng mạc kỹ thuật số là một phương pháp thay thế cho việc kiểm tra và theo dõi định kỳ ở những khu vực mà bác sĩ chuyên khoa không thường xuyên có mặt.

Bảng

Tài liệu tham khảo về đánh giá

  1. 1. Kaeppler C, Switchenko N, DiGeronimo R, Yoder BA: Do normal head ultrasounds need repeating in infants less than 30 weeks gestation? J Matern Fetal Neonatal Med 29(15):2428-2433, 2016 doi: 10.3109/14767058.2015.1086741

Điều trị trẻ sinh non

  • Chăm sóc hỗ trợ

Các rối loạn đặc hiệu được điều trị như được thảo luận ở những phần khác trong CẨM NANG.

Chăm sóc hỗ trợ chung cho trẻ sinh non được cung cấp tốt nhất trong NICU hoặc nhà trẻ chăm sóc đặc biệt và cần chú ý cẩn thận đến môi trường nhiệt, sử dụng lồng ấp điều khiển bằng servo. Tuân thủ rửa tay trước và sau khi chăm sóc bệnh nhân. Trẻ sơ sinh được theo dõi liên tục về tình trạng ngưng thở, nhịp tim chậm và hạ oxy máu cho đến tuần thứ 35 của thai kỳ.

Cha mẹ nên được khuyến khích đến thăm, chăm sóc và tương tác với trẻ sơ sinh càng nhiều càng tốt trong những giai đoạn khó khăn của tình trạng sức khoẻ của trẻ sơ sinh. Tiếp xúc da kề da giữa trẻ sơ sinh và cha mẹ (chăm sóc kiểu kangaroo) có lợi cho sức khỏe của trẻ sơ sinh và tạo điều kiện gắn kết với cha mẹ. Điều này là khả thi và an toàn ngay cả khi trẻ sơ sinh được hỗ trợ bởi các máy thở và truyền dịch.

Cho ăn

Nên cho ăn bằng ống thông mũi dạ dày cho đến khi thiết lập được việc phối hợp giữa bú, nuốt và thở vào khoảng 34 tuần tuổi thai, lúc đó việc nuôi con bằng sữa mẹ được khuyến khích mạnh mẽ. Hầu hết trẻ sinh non dung nạp sữa mẹ, sữa này cung cấp các yếu tố miễn dịch và dinh dưỡng không có trong sữa bò công thức. Tuy nhiên, sữa mẹ không cung cấp đủ lượng canxi, photpho và protein cho trẻ sơ sinh rất nhẹ cân (nghĩa là, < 1500 g), những trẻ này cần được cung cấp sữa mẹ tăng cường fortifier Ngoài ra, có thể sử dụng các loại sữa công thức dành riêng cho trẻ sinh non có chứa 20 đến 24 kcal/oz (2,8 đến 3,3 joules/mL).

Trong một hoặc hai ngày đầu tiên, nếu không thể cung cấp đầy đủ dịch và năng lượng cho trẻ qua đường miệng hoặc ống xông dạ dày do tình trạng của trẻ sơ sinh chưa ổn định. Khi đó cho ăn đường tĩnh mạch là cần thiết để bổ sung chất đạm, glucose và chất béo, ngăn ngừa mất nước và suy dinh dưỡng. Sữa mẹ hoặc sữa công thức cho trẻ sinh non qua ống thông dạ dày có thể duy trì đủ lượng calo ở trẻ nhỏ, ốm yếu, sinh non, đặc biệt là những trẻ bị suy hô hấp hoặc ngưng thở tái phát. Việc cho ăn bắt đầu với một lượng nhỏ (ví dụ, từ 1 đến 2 mL mỗi 3 đến 6 giờ) để kích thích đường tiêu hóa. Khi trẻ dung nạp được, lượng và nồng độ thức ăn gia tăng từ trong 7 đến 10 ngày. Ở trẻ sơ sinh rất nhỏ hoặc bệnh nặng, cần nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch để đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ. Khi đó đường truyền trung tâm (catheter trung tâm hay longline) có thể cần thiết để duy trì nuôi dưỡng tĩnh mạch trong một khoảng thời gian kéo dài cho đến khi có thể cho ăn đầy đủ qua đường tiêu hóa.

Xuất viện

Trẻ sinh non thường phải nhập viện cho đến khi các vấn đề y tế của trẻ được kiểm soát thỏa đáng và chúng được

  • Uống đủ lượng sữa công thức và/hoặc sữa mẹ mà không cần trợ giúp đặc biệt

  • Tăng cân một cách đều đặn

  • Có thể duy trì nhiệt độ cơ thể bình thường trong nôi.

  • Không còn ngưng thở hoặc nhịp tim chậm cần can thiệp

Hầu hết trẻ sinh non đều sẵn sàng về nhà khi thai được 35 tuần đến 37 tuần và nặng từ 2 kg đến 2,5 kg. Tuy nhiên, có sự khác biệt rất lớn. Một số trẻ sơ sinh có thể xuất viện sớm hơn trong khi đó một số trẻ cần ở lại lâu hơn trong bệnh viện. Khoảng thời gian trẻ nằm trong bệnh viện không ảnh hưởng đến tiên lượng lâu dài.

Trẻ non tháng nên được chuyển sang ngủ ở tư thế nằm ngửa trước khi xuất viện. Cha mẹ nên được hướng dẫn để giữ cho nôi của trẻ không có các vật liệu mềm bao gồm chăn, chăn, gối, và đồ chơi nhồi bông, do có liên quan đến tăng nguy cơ Hội chứng đột tử không rõ nguyên nhân ở trẻ sơ sinh (SUID).

Vì trẻ sinh non có nguy cơ có ngưng thở, mất bão hòa oxy và nhịp tim chậm khi ngồi trên ghế ô tô, Viện Hàn Lâm Nhi khoa Hoa Kỳ hiện khuyến cáo rằng trước khi xuất viện, tất cả trẻ sinh non đều được theo dõi độ bão hòa oxy trong 90 đến 120 phút khi ngồi trên ghế ô tô trẻ sẽ sử dụng sau khi xuất viện. Tuy nhiên, không có tiêu chí nào được thông qua để vượt qua hoặc không vượt qua bài kiểm tra, và một báo cáo gần đây của Hiệp hội Nhi khoa Canada (CPS) cho thấy việc kiểm tra chỗ ngồi của xe hơi có khả năng tái sản xuất kém và không dự đoán nguy cơ tử vong hoặc chậm phát triển thần kinh. Do đó, Hiệp hội nhi khoa Canada không khuyến cáo kiểm tra thường xuyên bài kiểm tra với ghế oto trước khi xuất viện (1). Trước những lo ngại về việc thửa ngồi trên ô tô, một cách tiếp cận thông thường đối với việc di chuyển bằng ô tô là để trẻ sinh non mới xuất viện do một người lớn không lái xe trong suốt quá trình di chuyển trên ghế ô tô theo dõi cho đến khi trẻ đủ tháng vẫn ổn định, có thể chịu đựng được khi ngồi trên ghế ô tô. Vì màu sắc của trẻ cần phải được quan sát, chuyến đi nên được giới hạn trong giờ ban ngày. Các chuyến đi dài nên được chia thành các đoạn 45 đến 60 phút để trẻ sơ sinh có thể được đưa ra khỏi chỗ ngồi của xe hơi và thay đổi vị trí.

Khảo sát cho thấy hầu hết các ghế ô tô không được lắp đặt tối ưu, vì vậy nên kiểm tra ghế ô tô có chứng nhận an toàn cho trẻ. Các địa điểm kiểm tra ở Hoa Kỳ có thể được tìm thấy thông qua Cục Quản lý An toàn Giao thông Đường cao tốc Quốc gia. Một số bệnh viện cung cấp dịch vụ kiểm tra. Lời khuyên lắp đặt ghế ô tô chỉ nên được đưa ra bởi chuyên gia về ghế ô tô đã được chứng nhận.

Viện hàn Lâm Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến nghị rằng ghế ô tô chỉ được sử dụng để vận chuyển bằng xe cộ chứ không phải làm ghế hoặc giường cho trẻ sơ sinh ở nhà (2).

Sau khi xuất viện, trẻ sơ sinh cực kỳ non tháng và trẻ non tháng nên được theo dõi cẩn thận cẩn thận về sự phát triển của thần kinh và sớm tiếp cận các chương trình can thiệp khi cần thiết để điều trị về thể chất, nghề nghiệp và ngôn ngữ.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Narvey MR; Canadian Paediatric Society, Fetus and Newborn Committee: Assessment of cardiorespiratory stability using the infant car seat challenge before discharge in preterm infants (< 37 weeks' gestational age). Paediatr Child Health 21(3):155–162, 2016. doi: 10.1093/pch/21.3.155

  2. 2. Durbin DR, Hoffman BD; COUNCIL ON INJURY, VIOLENCE, AND POISON PREVENTION: Child Passenger Safety. Pediatrics 142(5):e20182460, 2018 doi: 10.1542/peds.2018-2460

Tiên lượng về trẻ sinh non tháng

Tiên lượng thay đổi tùy theo sự hiện diện và mức độ nặng của các biến chứng, hoặc có sinh đa thai, nhưng thường tỷ lệ tử vong, khả năng bị thiểu năng trí tuệ và các biến chứng khác giảm đáng kể khi tuổi thai và cân nặng khi sinh tăng lên (xem bảng Suy giảm phát triển thần kinh ở trẻ cực non).

Bảng

Ngăn ngừa sinh non tháng

Mặc dù chăm sóc trước khi sinh sớm và thích hợp là quan trọng nói chung, nhưng không có bằng chứng xác thực nào cho thấy việc chăm sóc đó hoặc bất kỳ can thiệp nào khác làm giảm tỷ lệ sinh non.

Việc sử dụng thuốc giảm co để ngăn chuyển dạ sinh non và có thời gian cho dùng corticosteroid trước khi sinh để đẩy nhanh quá trình trưởng thành của phổi sẽ được thảo luận ở phần khác (xem Chuyển dạ sinh non).

Những điểm chính

  • Có nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến sinh non, nhưng các yếu tố này không xuất hiện trong hầu hết các trường hợp.

  • Các biến chứng bao gồm hạ thân nhiệt, hạ đường huyết, hội chứng suy hô hấp, các cơn ngưng thở, xuất huyết não thất, chậm phát triển, nhiễm khuẩn huyết, bệnh võng mạc do non tháng, tăng bilirubin máu, viêm ruột hoại tử và ăn kém.

  • Tử vong và khả năng xảy ra các biến chứng giảm đáng kể khi tuổi thai và cân nặng khi sinh tăng lên.

  • Điều trị rối loạn, đảm bảo nhiệt độ cơ thể và cho ăn.

  • Mặc dù những phụ nữ chăm sóc trước khi sinh thường xuyên có tỷ lệ sinh non thấp hơn, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy việc chăm sóc trước khi sinh được cải thiện hoặc các biện pháp can thiệp khác làm giảm tỷ lệ sinh non.

Thông tin thêm

Tài nguyên bằng tiếng Anh sau đây có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.

  1. National Highway Traffic Safety Administration: Kiểm tra ghế ô tô (Hoa Kỳ)

Trẻ sơ sinh non tháng muộn

Trẻ sơ sinh được sinh ra trong khoảng thời gian từ 34 đến 36 6/7 tuần tuổi thai được coi là sinh non muộn.

Chống chỉ định của trẻ sơ sinh non tháng muộn

Mặc dù các bác sĩ lâm sàng có xu hướng tập trung vào các biểu hiện nghiêm trọng và rõ ràng hơn về các vấn đề ở trẻ sơ sinh < 34 tuần tuổi thai, nhưng trẻ sinh non muộn có nguy cơ bị nhiều rối loạn tương tự (xem các biến chứng của trẻ non tháng). So với trẻ đủ tháng, trẻ đẻ non muộn có nguy cơ nằm viện lâu hơn và tăng nguy cơ tái nhập viện bởi các bệnh lý cần chăm sóc y tế. Hầu hết các rối loạn đều liên quan đến sự thiếu hụt chức năng cac cơ quan do sự chưa trưởng thành và cũng tương tự như trẻ non tháng. Tuy nhiên, mức độ nặng có giảm hơn. Tuy nhiên, mức độ nặng có giảm hơn Tuy nhiên, một số biến chứng của non tháng (ví dụ, viêm ruột hoại tử, bệnh võng mạc do non tháng, loạn sản phế quản phổi, xuất huyết trong não thất) thường không phổ biến ở trẻ đẻ non muộn. Trong hầu hết các trường hợp, các biến chứng được điều trị khỏi hoàn toàn.

Các biến chứng phổ biến hơn ở trẻ sinh non muộn bao gồm:

  • Hệ thần kinh trung ương: Các cơn ngưng thở (xem Chứng ngưng thở ở trẻ sinh non)

  • Đường tiêu hóa: Ăn kém do chưa trưởng thành phản xạ mút và nuốt (nguyên nhân chính dẫn đến việc ở lại bệnh viện kéo dài và/hoặc tái nhập viện)

  • Tăng bilirubin máu: Nguyên nhân do chưa trưởng thành cơ chế trao đổi chất bilirubin ở gan và/hoặc sự tăng hấp thu bilirubin ở ruột (ví dụ, giảm nhu động ruột gây tăng tái tuần hoàn ruột gan)

  • Hạ đường huyết: Do dự trữ glycogen thấp

  • Nhiệt độ không ổn định: Ở một vài mức độ hạ thân nhiệt sơ sinh ở một nửa số trẻ sơ sinh (tỷ lệ diện tích da/trọng lượng cơ thể lớn và khả năng điều hòa thân nhiệt còn kém do lớp mỡ nâu ít)

Đánh giá trẻ sinh non muộn

  • Sàng lọc thường quy cho các biến chứng

Có sự khác biệt về thực hành trong việc chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng muộn, đặc biệt đối với tuổi thai và/hoặc cân nặng khi sinh ở trẻ mà ở đó trẻ thường được nhận vào đơn vị hồi sức sơ sinh (NICU). Một số bệnh viện thường xuyên tiếp nhận trẻ sơ sinh < 35 tuần tuổi thai vào NICU, trong khi những bệnh viện khác có thể có giới hạn < 34 tuần. Vẫn còn các bệnh viện khác có cách tiếp cận riêng khác. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, tất cả trẻ non tháng muộn cần theo dõi chặt chẽ những điều sau đây:

  • Nhiệt độ: Có nguy cơ hạ thân nhiệt cao, và một số trẻ non tháng muộn cần phải nằm trong lồng ấp Nhiệt độ của trẻ nên được đánh giá thường xuyên. Nhiệt độ của trẻ nên được đánh giá thường xuyên. Đối với trẻ sơ sinh nằm trong phòng bệnh của mẹ, nhiệt độ trong phòng nên được duy trì ở mức 22 đến 25°C (72 đến 77°F), tương tự như nhiệt độ được khuyến nghị cho các khu chăm sóc trẻ sơ sinh.

  • Trọng lượng: Tùy thuộc vào lượng thức ăn của trẻ sơ sinh, có thể sụt cân nhiều gây tình trạng mất nước và tăng natri máu. Trẻ sơ sinh nên được cân nặng hàng ngày và cần phải tính toán và theo dõi sự sụt cân của trẻ. Chất điện giải nên được kiểm tra nếu cân nặng giảm vượt quá 10%.

  • Cho ăn và ăn: Trẻ đẻ non muộn có thể bú mẹ hoặc bú bình kém dẫn đến không đủ lượng sữa cần thiết cho trẻ. Hỗ trợ cho ăn bằng ống thông dạ dày thường là cần thiết, đặc biệt là ở trẻ sơ sinh < 34 tuần tuổi thai. Vì sữa mẹ có thể mất từ 1 đến 4 ngày mới bài tiết được, có thể cần bổ sung sữa của ngân hàng sữa mẹ hoặc sữa công thức. Số lượng sữa trẻ sơ sinh bú cũng như số lượng nước tiểu (tính bằng mL/kg/giờ) phải được theo dõi.

  • Glucose: Hạ đường máu sớm (trong vòng 12 giờ đầu tiên của cuộc sống) là phổ biến, do đó, nên cho ăn sớm và sàng lọc đường huyết theo khuyến cáo của Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (1) trong 24 giờ đầu đời nên được thực hiện. Ngoài ra, một số chuyên gia khuyên bạn nên tiếp tục sàng lọc mỗi 12 giờ cho đến khi xuất viện để phát hiện những trẻ sơ sinh bị hạ đường huyết do lượng sữa không đủ.

Tài liệu tham khảo về đánh giá

  1. 1. Committee on Fetus and Newborn, Adamkin DH: Postnatal glucose homeostasis in late-preterm and term infants. Khoa nhi 127(3):575–579, 2011. doi: 10.1542/peds.2010-3851

Điều trị trẻ sinh non muộn

  • Chăm sóc hỗ trợ

  • Điều trị đặc biệt cho các biến chứng

Tiến hành điều trị sau khi đã chẩn đoán xác định căn nguyên. Đối với trẻ sơ sinh không cần can thiệp hỗ trợ đặc biệt, điều trị và chăm sóc cần tập trung đảm bảo thân nhiệt và cho ăn.

Trẻ sơ sinh non muộn có thể bị ảnh hưởng do nhu cầu chuyển hóa của cơ thể để đảm bảo duy trì nhiệt độ cơ thể bình thường từ 36,5 đến 37,5°C (97,7 đến 99,5°F), tương ứng với nhiệt độ nách ở 36,5 đến 37,3°C (97,7 đến 99,1°F). Các môi trường nhiệt trung hòa là vùng nhiệt độ tối ưu cho trẻ sơ sinh; nó được định nghĩa là nhiệt độ môi trường mà ở đó nhu cầu trao đổi chất (và tiêu thụ calo) để duy trì nhiệt độ cơ thể trong phạm vi bình thường là thấp nhất. Nhiệt độ bình thường có thể được duy trì ở nhiệt độ môi trường thấp hơn với chi phí hoạt động trao đổi chất tăng, do đó nhiệt độ bình thường không đảm bảo rằng nhiệt độ môi trường là tối ưu. Khi nhiệt độ cơ thể dưới mức bình thường và nhiệt độ môi trương thấp thì khi đó được gọi là giới hạn nhiên độ mà ở đó cơ chế điều nhiệt không còn đảm bảm được nhiệt độ bình thường của cơ thể. Trong thực hành lâm sàng, nhiệt độ phòng 22,2 đến 25,6°C (72 đến 78°F) kết hợp với biện pháp tiếp xúc da kề da với chăn phủ ngoài, lại được phủ bao ngoài thêm nhiều chăn và đội mũ cho trẻ thì khi đó tạo được môi trường nhiệt tối ưu cho hầu hết trẻ non muộn. Trẻ đẻ non hoặc rất non thường cần có lồng ấp để dảm bảo môi trường nhiệt tối ưu.

Nuôi con bằng sữa mẹ được khuyến khích mạnh mẽ. Sữa mẹ, nguồn cung cấp các yếu tố miễn dịch và dinh dưỡng không có trong sữa bò, được trẻ sinh non tháng muộn dung nạp tốt. Trẻ đẻ non chưa có khả năng phổi hợp giữa mút, nuốt và thở, cần được cho ăn bằng ống thông dạ dày với một lượng nhỏ, tăng dần từ.

Tiên lượng về trẻ sinh non muộn

Tiên lượng thay đổi theo biểu hiện lâm sàng và mức độ nghiêm trọng của các biến chứng. Nói chung, tử vong và khả năng biến chứng giảm đáng kể do tuổi thai và cân nặng khi sinh tăng lên.

Các vấn đề hô hấp thường giải quyết mà không có di chứng lâu dài. Các cơn ngưng thở thường đỡ khi trẻ sơ sinh đến độ tuổi mà lẽ ra là 37 đến 38 tuần tuổi thai và hầu như luôn luôn là 43 tuần.

Rối loạn phát triển thần kinh (xem Phát triển trẻ em) là phổ biến hơn ở trẻ sinh non tháng (so với trẻ đủ tháng) được đánh giá ở tuổi 2 và ở tuổi mẫu giáo (1). Xác định sớm bằng cách giám sát các mốc phát triển và các can thiệp hỗ trợ kịp thời với những trẻ có dấu hiệu chậm tăng trưởng.

Tài liệu tham khảo về tiên lượng bệnh

  1. 1. Woythaler M: Neurodevelopmental outcomes of the late preterm infant. Semin Fetal Neonatal Med 24(1):54-59, 2019 doi: 10.1016/j.siny.2018.10.002

Những điểm chính

  • Mặc dù trẻ sinh non tháng muộn (sinh từ ≥ 34 tuần đến < 36 6/7 tuần tuổi thai) có thể có kích thước và hình dáng tương tự như trẻ đủ tháng, nhưng trẻ có nguy cơ cao hơn bị các biến chứng.

  • Các biến chứng bao gồm hạ thân nhiệt, hạ đường huyết, ăn kém, giảm cân nhiều, suy hô hấp, tăng bilirubin máu và tăng khả năng tái nhập viện sau khi xuất viện.

  • Điều trị rối loạn, đảm bảo nhiệt độ cơ thể và cho ăn.

  • Theo dõi tình trạng phát triển thần kinh và kịp thời điều trị hỗ trợ với bất kỳ thiếu hụt nào.