Siêu âm

TheoMehmet Kocak, MD, Rush University Medical Center
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 04 2021

Trong siêu âm, đầu phát tín hiệu được tích hợp vào đầu dò. Các tinh thể áp điện trong đầu phát tín hiệu chuyển đổi điện thành các sóng âm thanh tần số cao, các sóng này được đưa tới các mô. Các mô phân tán, phản xạ, và hấp thụ sóng âm theo nhiều mức độ khác nhau. Các sóng âm phản xạ lại (âm vang) được chuyển thành tín hiệu điện. Máy tính sẽ phân tích các tín hiệu này và hiển thị chúng thành hình ảnh giải phẫu trên màn hình.

Máy siêu âm cơ động, phổ biến, tương đối rẻ tiền, và an toàn. Không sử dụng bức xạ.

Nguyên tắc siêu âm
Cách siêu âm: Chọn đầu dò

Thủ thuật được thực hiện bởi Robert Strony DO, MBA, RDCS, FACEP, Giám đốc y khoa, Siêu âm điểm; Phó Giáo sư Y học lâm sàng, Geisinger Commonwealth School of Medicine; Phó giáo sư (Adjunc) Trường Y khoa Lewis Katz, Đại học Temple.

Cách siêu âm: Bảng điều khiển và các điều khiển

Thủ thuật được thực hiện bởi Robert Strony DO, MBA, RDCS, FACEP, Giám đốc y khoa, Siêu âm điểm; Phó Giáo sư Y học lâm sàng, Geisinger Commonwealth School of Medicine; Phó giáo sư (Adjunc) Trường Y khoa Lewis Katz, Đại học Temple.

Cách siêu âm: Thu nhận các hình ảnh

Thủ thuật được thực hiện bởi Robert Strony DO, MBA, RDCS, FACEP, Giám đốc y khoa, Siêu âm điểm; Phó Giáo sư Y học lâm sàng, Geisinger Commonwealth School of Medicine; Phó giáo sư (Adjunc) Trường Y khoa Lewis Katz, Đại học Temple.

Chỉ định của siêu âm

Siêu âm có thể giúp xác định các phát triển bất thường, hoặc các cơ quan ở vị trí bề mặt hoặc nằm bên ngoài (như tuyến giáp, vú, tinh hoàn, chi và một số hạch lympho). Với cấu trúc sâu hơn, các mô khác nhau với các mật độ khác nhau (như xương, khí) có thể gây ảnh hưởng đến chất lượng hình ảnh.

Siêu âm thường được sử dụng để đánh giá:

  • Tim (Siêu âm tim): phát hiện các bất thường trong kích thước van và buồng tim, ước tính phân suất tống máu và sức căng cơ tim (xem Siêu âm tim)

  • Túi mật và đường mật: Phát hiện sỏi mật và tình trạng tắc mật (xem Chẩn đoán hình ảnh gan mật: Siêu âm)

  • Đường tiết niệu: Phân biệt nang thận (thường lành tính) với khối rắn (thường ác tính), phát hiện tắc nghẽn do sỏi thận, hoặc các bất thường khác về mặt cấu trúc ở thận, niệu quản, hoặc bàng quang (xem Các xét nghiệm hình ảnh sinh dục: Siêu âm)

  • Cơ quan sinh dục nữ: Phát hiện khối u và tổn thương viêm ở buồng trứng, ống dẫn trứng, hoặc tử cung (xem Giới thiệu về khối u phụ khoa)

  • Mang thai: Đánh giá sự tăng trưởng và phát triển của thai nhi, phát hiện những bất thường của rau thai (rau tiền đạo – xem Đánh giá Bệnh nhân Sản khoa: Siêu âm).

  • Cơ xương khớp: Đánh giá cơ, dây chằng và dây thần kinh.

Siêu âm cũng có thể được sử dụng để hướng dẫn sinh thiết.

Siêu âm đôi khi được tiến hành bên trong cơ thể thông qua việc sử dụng các đầu dò nhỏ trên đầu nội soi hoặc catheter.

Các biến thể của siêu âm

Có một số cách hiển thị các thông tin siêu âm.

Chế độ A

Đây là chế độ hiển thị đơn giản nhất; tín hiệu được ghi lại dưới dạng các đỉnh trên đồ thị. Trục dọc (Y) của màn hình cho thấy biên độ âm, và trục ngang (X) cho thấy chiều sâu hoặc khoảng cách tới bệnh nhân.

Loại siêu âm này được sử dụng trong khám nhãn khoa.

Chế độ B (đen trắng)

Chế độ này thường được sử dụng trong chẩn đoán hình ảnh; tín hiệu được hiển thị dưới dạng hình ảnh giải phẫu 2D.

Chế độ B thường được sử dụng để đánh giá thai nhi đang phát triển và các cơ quan bao gồm gan, lách, thận, tuyến giáp, tinh hoàn, vú, tử cung, buồng trứng và tuyến tiền liệt.

Siêu âm chế độ B đủ nhanh để hiển thị chuyển động theo thời gian thực, như chuyển động của tim hoặc các mạch máu. Những hình ảnh thời gian thực này cung cấp thông tin về mặt giải phẫu và chức năng.

Chế độ M

Chế độ này được sử dụng trong chẩn đoán hình ảnh các cấu trúc động; các tín hiệu dội lại bởi các cấu trúc động được chuyển thành các sóng, sau đó, chúng được hiển thị liên tục qua một trục thẳng đứng.

Chế độ M được sử dụng chủ yếu để đánh giá nhịp tim thai nhi và trong chẩn đoán hình ảnh tim, đặc biệt là để đánh giá các bệnh lý van tim.

Doppler

Loại siêu âm này được sử dụng để đánh giá lưu lượng máu. Siêu âm Doppler sử dụng hiệu ứng Doppler (là sự thay đổi tần số âm thanh do hồi âm của vật thể động). Các vật thể động cụ thể ở đây là những hồng cầu di chuyển trong máu.

Hướng và tốc độ lưu thông của dòng máu có thể được xác định bằng cách phân tích sự thay đổi tần số sóng âm:

  • Nếu một sóng hồi âm có tần số thấp hơn tần số sóng truyền: dòng máu chảy xa khỏi đầu dò.

  • Nếu một sóng hồi âm phản âm có tần số cao hơn sóng truyền: dòng máu chảy về phía đầu dò.

  • Mức độ thay đổi tần số tỉ lệ thuận với vận tốc dòng máu.

Sự thay đổi tần số của sóng HỒI âm được chuyển thành các hình ảnh thể hiện được hướng và tốc độ dòng máu.

Siêu âm Doppler cũng được sử dụng để

  • Đánh giá mạch máu tới các khối u và các cơ quan

  • Đánh giá chức năng tim (siêu âm tim)

  • Phát hiện tắc hẹp mạch

  • Để phát hiện cục máu đông trong lòng mạch (như huyết khối tĩnh mạch sâu)

Siêu âm Doppler phổ hiển thị thông tin dòng máu dưới dạng đồ thị, với vận tốc được hiển thị trên trục dọc và thời gian hiển thị trên trục ngang. Có thể đo đạc cụ thể vận tốc nếu xác định được góc Doppler (góc giữa chùm tia siêu âm và hướng dòng máu). Việc đo tốc độ và sự xuất hiện của các phổ dò Doppler có thể chỉ ra mức độ hẹp thắt mạch máu.

Siêu âm Duplex Doppler kết hợp giữa dạng hiển thị đồ thị của siêu âm phổ với những hình ảnh trong siêu âm chế độ B.

Siêu âm Doppler màu chuyển đổi thông tin dòng chảy Doppler thành hình ảnh mạch máu dưới dạng màu. Những hình ảnh này được hiển thị dưới dạng mô hình giải phẫu trên hình ảnh siêu âm. Hướng dòng máu được chỉ ra dưới dạng màu (màu đỏ cho thấy máu chảy về phía đầu dò, màu xanh cho thấy máu chảy ra xa khỏi đầu dò). Vận tốc trung bình dòng chảy được hiển thị bởi độ sáng của màu sắc (ví dụ, màu đỏ tươi biểu thị dòng chảy tốc độ cao về phía đầu dò, màu xanh đậm cho thấy dòng chảy tốc độ chậm ra xa khỏi đầu dò).

Nhược điểm của siêu âm

Chất lượng hình ảnh phụ thuộc vào kỹ năng của người làm siêu âm.

Đối với bệnh nhân quá cân, có thể gặp khó khăn về mặt kỹ thuật trong việc lấy được những hình ảnh cấu trúc đích rõ ràng.

Siêu âm không thể được sử dụng trong chẩn đoán hình ảnh ở những vùng có xương hoặc khí, do đó việc tiến hành siêu âm trên một số vùng cơ thể có thể gặp nhiều khó khăn.