Ngộ độc Vitamin D

TheoLarry E. Johnson, MD, PhD, University of Arkansas for Medical Sciences
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 8 2024

Thông thường, ngộ độc vitamin D là do bổ sung quá nhiều. Trong tình trạng ngộ độc vitamin D, tái hấp thu canxi ở xương và ruột tăng lên, dẫn đến tăng canxi huyết. Chứng tăng canxi huyết đáng kể thường gây ra các triệu chứng. Chẩn đoán thường dựa trên nồng độ 25(OH)D trong máu tăng cao. Điều trị bao gồm ngừng dùng vitamin D, hạn chế canxi trong chế độ ăn, phục hồi tình trạng thiếu hụt thể tích nội mạch và nếu ngộ độc nặng, dùng corticosteroid hoặc bisphosphonate.

Do quá trình tổng hợp 1,25-dihydroxyvitamin D (chất chuyển hóa có hoạt tính mạnh nhất của vitamin D) được kiểm soát chặt chẽ nên tình trạng ngộ độc vitamin D thường chỉ xảy ra nếu dùng quá liều (thuốc theo toa hoặc thuốc bổ sung vitamin D). Vitamin D 1000 mcg (40.000 đơn vị quốc tế [IU])/ngày có thể gây ngộ độc cho trẻ sơ sinh trong vòng 1 tháng đến 4 tháng. Ở người lớn, dùng 1250 mcg (50.000 IU)/ngày trong vài tháng có thể gây ngộ độc. Ngộ độc vitamin D có thể xảy ra do nguyên nhân bác sĩ sử dụng thuốc khi tình trạng suy tuyến cận giáp được điều trị quá mức.

Sinh lý học của ngộ độc vitamin D

Vitamin D có 2 dạng chính:

  • D2 (ergocalciferol)

  • D3 (cholecalciferol): Dạng hình thành trong tự nhiên và dạng được sử dụng để bổ sung liều thấp

Vitamin D3 được tổng hợp ở da khi tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời (bức xạ cực tím B) và có trong chế độ ăn chủ yếu là dầu gan cá và cá nước mặn (xem bảng Nguồn, chức năng và tác dụng của các vitamin). Ở một số quốc gia, sữa và các thực phẩm khác được bổ sung vitamin D. Sữa mẹ có hàm lượng ‭‬vitamin D‬ thấp, trung bình chỉ có 10% lượng vitamin D trong sữa bò được bổ sung.

Nồng độ vitamin D có thể giảm theo tuổi tác vì quá trình tổng hợp ở da suy giảm. Sử dụng kem chống nắng và tình trạng da sẫm màu cũng làm giảm quá trình tổng hợp vitamin D của da.

Vitamin D là một tiền hormone có một vài chất chuyển hóa có hoạt tính như hormone. Vitamin D được chuyển hóa ở gan thành 25(OH)D (calcifediol, calcidiol, 25-hydroxycholecalciferol hoặc 25-hydroxyvitamin D), sau đó được thận chuyển thành 1,25-dihydroxyvitamin D (1,25-dihydroxycholecalciferol, calcitriol hoặc hormone vitamin D có hoạt tính). 25(OH)D, dạng tuần hoàn chủ yếu, có một số hoạt động trao đổi chất, nhưng 1,25-dihydroxyvitamin D là chất hoạt động chuyển hóa mạnh nhất. Quá trình chuyển đổi thành 1,25-dihydroxyvitamin D được điều chỉnh theo nồng độ của chính chất này, hormone tuyến cận giáp (PTH) và nồng độ canxi và phốt phát trong huyết thanh.

Vitamin D ảnh hưởng đến nhiều hệ cơ quan (xem bảng Tác dụng của Vitamin D và các chất chuyển hóa của vitamin D), nhưng chủ yếu vitamin D làm tăng khả năng hấp thụ canxi và phốt phát từ ruột và thúc đẩy quá trình hình thành xương và khoáng hóa bình thường ở xương.

Vitamin D và các chất tương tự liên quan có thể được sử dụng để điều trị bệnh vẩy nến, suy tuyến cận giáploạn dưỡng xương do thận. Tính hữu ích của vitamin D trong việc làm giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân hoặc trong việc ngăn ngừa bệnh bạch cầu và ung thư vú, tuyến tiền liệt, đại tràng hoặc các loại ung thư khác cũng như hiệu quả của vitamin D trong việc điều trị nhiều bệnh lý không liên quan đến xương khác ở người lớn vẫn chưa được chứng minh (1–3). Bổ sung vitamin D không điều trị hoặc không ngăn ngừa hiệu quả tình trạng trầm cảm hoặc bệnh tim mạch (4, 5) và có tác dụng không đáng kể trong việc ngăn ngừa các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính (6). Sử dụng chế độ ăn uống kết hợp theo khuyến nghị của cả vitamin D và canxi có thể hơi làm giảm nguy cơ bị té ngã (7) ở những bệnh nhân thiếu hụt vitamin D, đặc biệt là những người được đưa vào viện dưỡng lão. Tuy nhiên, liều lớn vitamin D có thể làm tăng nguy cơ bị gãy xương (8, 9). Vì nguyên nhân gây té ngã là do nhiều yếu tố nên các nghiên cứu khác không phát hiện ra rằng chỉ riêng việc bổ sung vitamin D có thể làm giảm nguy cơ bị té ngã và gãy xương ở người cao tuổi (10, 11).

(Xem thêm Tổng quan về các vitamin.)

Bảng
Bảng

Tài liệu tham khảo sinh lý học

  1. 1. Autier P, Mullie P, Macacu A, et al: Effect of vitamin D supplementation on non-skeletal disorders: A systematic review of meta-analyses and randomised trials. Lancet Diabetes Endocrinol 5 (12):986–1004, 2017. doi: 10.1016/S2213-8587(17)30357-1

  2. 2. Manson JE, Cook NR, Lee IM, et al: Vitamin D supplements and prevention of cancer and cardiovascular disease. N Engl J Med 380(1):33-44, 2019. doi: 10.1056/NEJMoa1809944

  3. 3. Cianferotti L, Bertoldo F, Bischoff-Ferrari HA, et al: Vitamin D supplementation in the prevention and management of major chronic diseases not related to mineral homeostasis in adults: research for evidence and a scientific statement from the European Society for Clinical and Economic aspects of Osteoporosis and Osteoarthritis (ESCEO). Endocrine 56:245-261, 2017. doi:10.1007/s12020-017-1290-9

  4. 4. Okereke OI, Reynolds CF 3rd, Mischoulon D, et al: Effect of long-term vitamin D3 supplementation vs placebo on risk of depression or clinically relevant depressive symptoms and on change in mood scores: A randomized clinical trial. JAMA 324(5):471-480, 2020. doi: 10.1001/jama.2020.10224

  5. 5. Barbarawi M, Kheiri B, Zayed Y, et al: Vitamin D supplementation and cardiovascular disease risks in more than 83.000 individuals in 21 randomized clinical trials: A meta-analysis [published correction appears in JAMA Cardiol 2019 Nov 6]. JAMA Cardiol 4(8):765-776, 2019. doi: 10.1001/jamacardio.2019.1870

  6. 6. Jolliffe DA, Camargo CA Jr, Sluyter JD, et al. Vitamin D supplementation to prevent acute respiratory infections: a systematic review and meta-analysis of aggregate data from randomised controlled trials. Lancet Diabetes Endocrinol. 2021;9(5):276-292. doi:10.1016/S2213-8587(21)00051-6

  7. 7. Ling Y, Xu F, Xia X, et al: Vitamin D supplementation reduces the risk of fall in the vitamin D deficient elderly: an updated meta-analysis. Clin Nutr 40:5531-5537, 2021. doi:10.1016/j.clnu.2021.09.031

  8. 8. Yao P, Bennett D, Mafham M, et al. Vitamin D and Calcium for the Prevention of Fracture: A Systematic Review and Meta-analysis. JAMA Netw Open. 2019;2(12):e1917789. Xuất bản ngày 2 tháng 12 năm 2019. doi:10.1001/jamanetworkopen.2019.17789

  9. 9. Zhao JG, Zeng XT, Wang J, Liu L. Association Between Calcium or Vitamin D Supplementation and Fracture Incidence in Community-Dwelling Older Adults: A Systematic Review and Meta-analysis. JAMA. 2017;318(24):2466-2482. doi:10.1001/jama.2017.19344

  10. 10. Appel LJ, Michos ED, Mitchell CM, et al: The effects of four doses of vitamin D supplements on falls in older adults: a response-adaptive, randomized clinical trial. Ann Intern Med 174:145-156, 2021. doi:10.7326/M20-3812

  11. 11. LeBoff MS, Chou SH, Ratliff KA, et al. Supplemental Vitamin D and Incident Fractures in Midlife and Older Adults. N Engl J Med. 2022;387(4):299-309. doi:10.1056/NEJMoa2202106

Các triệu chứng và dấu hiệu của ngộ độc vitamin D

Các triệu chứng chính của ngộ độc vitamin Ddo tăng canxi huyết. Biếng ăn, buồn nôn, và nôn ói có thể phát triển, thường tiếp theo là đa niệu, chứng khát, yếu, căng thẳng, ngứa và cuối cùng là suy thận. Protein niệu, trụ niệu, ure huyết, và vôi hóa di căn (đặc biệt ở thận) có thể phát triển.

Chẩn đoán ngộ độc vitamin D

  • Chứng tăng canxi huyết cộng với các yếu tố nguy cơ hoặc tăng nồng độ 25(OH)D huyết thanh

Tiền sử dùng quá nhiều vitamin D có thể là manh mối duy nhất phân biệt tình trạng ngộ độc vitamin D với các nguyên nhân khác gây tăng canxi huyết. Tăng nồng độ canxi huyết thanh từ 12 đến 16 mg/dL (3 đến 4 mmol/L) là một dấu hiệu không đổi khi các triệu chứng ngộ độc xuất hiện. Nồng độ 25(OH)D trong huyết thanh thường tăng lên đến > 150 ng/mL (> 375 nmol/L). Nồng độ 1,25-dihydroxyvitamin D, không cần phải đo để xác nhận chẩn đoán, có thể ở mức bình thường.

Nồng độ canxi huyết thanh cần phải được đo thường xuyên (đầu tiên là hàng tuần, sau đó là hàng tháng) ở tất cả các bệnh nhân dùng liều cao vitamin D, đặc biệt là 1,25-dihydroxyvitamin D hiệu lực.

Điều trị ngộ độc vitamin D

  • Bổ sung chất lỏng đường tĩnh mạch cộng với corticosteroid hoặc bisphosphonate

Sau khi ngừng dùng vitamin D, cần truyền nước (bằng dung dịch nước muối sinh lý theo đường tĩnh mạch) và corticosteroid hoặc bisphosphonate (ức chế quá trình tiêu xương) để làm giảm nồng độ canxi trong máu. (Xem Điều trị tăng canxi máu.)

Tổn hại thận hoặc các chất vôi hóa di căn, nếu có xuất hiện, là không thể đảo ngược.