Ung thư vú

Theo
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 07 2023

Ung thư vú thường là các khối u biểu mô liên quan đến các ống dẫn hoặc các tiểu thùy. Hầu hết các bệnh nhân có khối bất thường nhưng không biểu hiện triệu chứng mà phát hiện thông qua khám hoặc sàng lọc bằng X-quang Chẩn đoán được xác nhận bằng sinh thiết. Đưa ra chẩn đoán theo sinh thiết. Điều trị thường bao gồm phẫu thuật cắt bỏ, kết hợp với liệu pháp xạ trị và có hoặc không có hóa trị liệu bổ trợ, liệu pháp nội tiết, hoặc cả hai.

Tại Hoa Kỳ, ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ, ngoại trừ ung thư da (1). Ung thư vú là nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng thứ 2 (phổ biến nhất là ung thư phổi) trong dân số là nữ giới nói chung nhưng là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở phụ nữ Da đen. Phụ nữ da đen có nhiều khả năng tử vong vì ung thư vú hơn bất kỳ chủng tộc hoặc sắc tộc nào khác; phụ nữ châu Á và các đảo Thái Bình Dương có tỷ lệ tử vong do ung thư vú thấp nhất.

Vào năm 2023, ước tính ở phụ nữ ở Hoa Kỳ sẽ có

  • 297.790 trường hợp mới bị ung thư vú xâm lấn

  • 55.720 trường hợp mới bị ung thư vú tại chỗ

  • 43.700 ca tử vong do ung thư vú

Vào năm 2023, ở nam giới ở Hoa Kỳ, ước tính sẽ có 2800 trường hợp mắc ung thư vú xâm lấn mới và 530 trường hợp tử vong do căn bệnh này (2). Các biểu hiện, chẩn đoán và điều trị ở nam và nữ đều giống nhau, mặc dù nam giới có xu hướng biểu hiện ở giai đoạn muộn hơn.

Tài liệu tham khảo chung

  1. 1. American Cancer Society: Key Statistics for Breast Cancer. Truy cập vào ngày 4 tháng 5 năm 2023.

  2. 2. American Cancer Society: Key Statistics for Breast Cancer in Men. Truy cập vào ngày 4 tháng 5 năm 2023.

Các yếu tố nguy cơ gây ung thư vú

Đối với phụ nữ ở Hoa Kỳ, nguy cơ mắc bệnh ung thư vú tích lũy trong đời là khoảng 13% (1/8 [1]). Phần lớn nguy cơ xảy ra sau tuổi 60 (Xem bảng: Nguy cơ chảy máu của ung thư vú xâm lấn). Nguy cơ tử vong của ung thư vú là khoảng 10% với 5 năm sau khi chẩn đoán (2).

Bảng

Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư vú bao gồm:

  • Tuổi tác: Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở phụ nữ từ 65 tuổi đến 74 tuổi. Độ tuổi trung vị lúc chẩn đoán là 63 tuổi (1).

  • Chủng tộc và chủng tộc: Độ tuổi trung vị khi có chẩn đoán trẻ hơn một chút đối với phụ nữ Da đen (60 tuổi) so với phụ nữ Da trắng 63 tuổi) (1). Phụ nữ da đen có tỷ lệ tử vong do ung thư vú cao nhất so với các chủng tộc hoặc sắc tộc khác; điều này có thể một phần là do họ có tỷ lệ mắc ung thư vú bộ ba âm tính cao hơn (âm tính với thụ thể estrogen và progesterone và gen gây ung thư thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì [HER2] ở người), có tiên lượng kém hơn các loại khác. Phụ nữ da trắng, châu Á và đảo Thái Bình Dương có nhiều khả năng được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú khu trú hơn phụ nữ da đen, gốc Tây Ban Nha, người Mỹ da đỏ và thổ dân Alaska. 

  • tiền sử gia đình: Có người thân thế hệ 1 (mẹ, chị gái, con gái) mắc bệnh ung thư vú làm tăng gấp đôi nguy cơ phát triển ung thư, nhưng ung thư vú ở những người họ hàng xa hơn chỉ làm tăng nguy cơ một chút (3). Khi 2 người thân có quan hệ huyết thống bậc 1 bị ung thư vú, nguy cơ có thể cao gấp 3 đến 4 lần.

  • Các đột biến gen ung thư vú: Khoảng 5 đến 10% phụ nữ bị ung thư vú mang một đột biến ở một trong 2 gen ung thư vú đã biết, BRCA1 hoặc là BRCA2. Nguy cơ phát triển ung thư vú ở tuổi 80 là khoảng 72% với đột biến BRCA1 và khoảng 69% với đột biến BRCA2. Phụ nữ có đột biến BRCA1 cũng có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng khoảng 44% trong đời; nguy cơ ở phụ nữ có đột biến BRCA2 là khoảng 17% (4, 5). Nam giới mà có gen BRCA đột biến có 1 đến 2% nguy cơ phát triển ung thư vú suốt đời. Các đột biến này phổ biến hơn ở những người có tổ tiên Do Thái Ashkenazi. Phụ nữ có đột biến BRCA1 hoặc BRCA2 cần được giám sát chặt chẽ hơn hoặc có các biện pháp phòng ngừa, chẳng hạn như sàng lọc bằng cả chụp nhũ ảnh và MRI, dùng tamoxifen hoặc phẫu thuật cắt bỏ vú để giảm nguy cơ.

  • Tiền sử cá nhân bị bệnh ung thư vú: Đã mắc ung thư vú tại chỗ hoặc xâm lấn sẽ làm tăng nguy cơ. Nguy cơ phát triển ung thư ở vú đối diện sau phẫu thuật cắt bỏ vú là khoảng 0,4%/năm theo dõi (6).

  • Ung thư biểu mô tiểu thuỳ tế bào tại chỗ (LCIS): Có LCIS làm tăng nguy cơ phát triển ung thư biểu mô xâm lấn ở một trong hai vú khoảng 7 lần đến 12 lần (7); ung thư biểu mô xâm lấn phát triển ở khoảng 1% đến 2% số bệnh nhân mắc LCIS hàng năm.

  • Tiền sử các bệnh phụ khoa: Có kinh sớm hoặc mãn kinh muộn làm tăng nguy cơ. Nguy cơ tăng lên khi tuổi mang thai lần đầu tăng lên (3).

  • Bệnh vú lành tính: Tiền sử tổn thương cần sinh thiết có liên quan đến nguy cơ tăng nhẹ. Phụ nữ có nhiều khối u vú nhưng không có xác nhận khẳng định mô học của tế bào học có nguy cơ cao thì không được xem là có nguy cơ cao. Những tổn thương lành tính liên quan đến tăng nhẹ nguy cơ phát triển ung thư vú xâm lấn bao gồm: khối u xơ nang phức tạp, quá sản tuyến vú (không điển hình), phì đại tuyến vú và u nhú. Nguy cơ cao hơn khoảng 3 đến 5 lần so với mức trung bình ở những bệnh nhân tăng sản ống hoặc tiểu thùy không điển hình (8).

  • Mô vú dày đặc: Mô vú dày đặc được quan sát thấy trên chụp nhũ ảnh có liên quan đến nguy cơ ung thư vú tăng gấp 1,2 đến 2,1 lần (9).

  • Sử dụng thuốc ngừa thai uống: Kết quả nghiên cứu khác nhau về việc sử dụng thuốc tránh thai và nguy cơ ung thư vú. Một số nghiên cứu đã thấy nguy cơ gia tăng nhỏ ở những người dùng hiện tại hoặc gần đây (10).

  • Liệu pháp hormone: Trong thử nghiệm phân nhóm ngẫu nhiên của Sáng kiến Sức khỏe Phụ nữ, liệu pháp hormone mãn kinh (estrogen cộng với progestin) làm tăng nguy cơ ở mức độ vừa phải chỉ sau 3 năm sử dụng (11). Sau 5 năm sử dụng, nguy cơ gia tăng là thêm khoảng 3 trường hợp trên 1000 phụ nữ trong mỗi năm sử dụng (nguy cơ tương đối tăng khoảng 24%). Chỉ sử dụng estrogen dường như không làm tăng nguy cơ ung thư vú. Estrogen chọn lọc các thuốc điều chế thụ thể (như raloxifene) làm giảm nguy cơ phát triển ung thư vú.

  • Liệu pháp tia xạ: Việc tiếp xúc với xạ trị vùng ngực cho đến 45 tuổi sẽ làm tăng nguy cơ, với mức tăng cao nhất đối với những người bị phơi nhiễm trong độ tuổi từ 10 tuổi đến 14 tuổi (12). Liệu pháp xạ trị trong trường hợp u hạch Hodgkin có thể làm tăng gấp bốn lần nguy cơ ung thư vú trong vòng 20 đến 30 năm tiếp theo.

  • Chế độ ăn: Chế độ ăn uống có thể góp phần vào tình trạng phát triển, tăng trưởng hoặc tiên lượng bệnh ung thư vú, nhưng vẫn chưa có bằng chứng thuyết phục về tác dụng của một chế độ ăn uống cụ thể (ví dụ: chế độ ăn nhiều chất béo).

  • Béo phì: Phụ nữ sau mãn kinh bị béo phì có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn; các nghiên cứu cho thấy nguy cơ tăng thêm 10% đối với mỗi 5 đơn vị chỉ số khối cơ thể (BMI) bổ sung trên chỉ số BMI bình thường (13).

  • Hút thuốc và uống rượu: Hút thuốc và sử dụng rượu dường như có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vú; mức độ uống rượu tăng lên phụ thuộc vào liều lượng (14, 15).

Công cụ đánh giá nguy cơ ung thư vú (BCRAT), hay mô hình Gail, có thể được sử dụng để tính toán nguy cơ phát triển ung thư vú trong 5 năm và suốt đời của phụ nữ.

Tài liệu tham khảo về các yếu tố nguy cơ

  1. 1. American Cancer Society: Key Statistics for Breast Cancer. Truy cập vào ngày 4 tháng 5 năm 2023.

  2. 2. American Cancer Society: Survival Rates for Breast Cancer. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2023.

  3. 3. Collaborative Group on Hormonal Factors in Breast Cancer: Familial breast cancer: collaborative reanalysis of individual data from 52 epidemiological studies including 58,209 women with breast cancer and 101,986 women without the disease. Lancet 358(9291):1389-1399, 2001 doi:10.1016/S0140-6736(01)06524-2

  4. 4. Kuchenbaecker KB, Hopper JL, Barnes DR, et al: Risks of breast, ovarian, and contralateral breast cancer for BRCA1 and BRCA2 mutation carriers. JAMA 317 (23):2402–2416, 2017. doi: 10.1001/jama.2017.7112

  5. 5. Breast Cancer Association Consortium; Dorling L, Carvalho S, Allen J, et al: Breast cancer risk genes — Association analysis in more than 113,000 women. N Engl J Med 4;384 (5):428–439, 2021. doi: 10.1056/NEJMoa1913948

  6. 6. Giannakeas V, Lim DW, Narod SA: The risk of contralateral breast cancer: a SEER-based analysis. Br J Cancer 125(4):601-610, 2021 doi:10.1038/s41416-021-01417-7

  7. 7. American Cancer Society (ACOG): Lobular Carcinoma in Situ (LCIS). Truy cập vào ngày 4 tháng 5 năm 2023.

  8. 8. Collins LC, Baer HJ, Tamimi RM, et al: Magnitude and laterality of breast cancer risk according to histologic type of atypical hyperplasia: results from the Nurses' Health Study. Cancer 109(2):180-187, 2007 doi:10.1002/cncr.22408

  9. 9. American College of Obstetricians and Gynecologists (ACOG): Committee opinion no. 625: Management of women with dense breasts diagnosed by mammography. Obstet Gynecol 125 (3):750–751, 2015. Reaffirmed 2020. doi: 10.1097/01.AOG.0000461763.77781.79 Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2023.

  10. 10. American College of Obstetricians and Gynecologists (ACOG): Hormonal contraception and risk of breast cancer: Practice advisory. Xuất bản 2018, xác nhận lại 2022. Truy cập vào ngày 4 tháng 5 năm 2023.

  11. 11. Rossouw JE, Anderson GL, Prentice RL, et al.: Risks and benefits of estrogen plus progestin in healthy postmenopausal women: Principal results from the Women's Health Initiative randomized controlled trial. JAMA 288 (3):321–333, 2002. doi:10.1001/jama.288.3.321

  12. 12. John EM, Kelsey JL: Radiation and other environmental exposures and breast cancer. Epidemiol Rev 15(1):157-162, 1993 doi:10.1093/oxfordjournals.epirev.a036099

  13. 13. Lauby-Secretan B, Scoccianti C, Loomis D, et al: Body Fatness and Cancer--Viewpoint of the IARC Working Group. N Engl J Med 375(8):794-798, 2016 doi:10.1056/NEJMsr1606602

  14. 14. Gram IT, Park SY, Kolonel LN, et al: Smoking and Risk of Breast Cancer in a Racially/Ethnically Diverse Population of Mainly Women Who Do Not Drink Alcohol: The MEC Study. Am J Epidemiol 182(11):917-925, 2015 doi:10.1093/aje/kwv092

  15. 15. Zhang SM, Lee IM, Manson JE, et al: Alcohol consumption and breast cancer risk in the Women's Health Study. Am J Epidemiol 165(6):667-676, 2007 doi:10.1093/aje/kwk054

Bệnh lý của ung thư vú

Hầu hết các bệnh ung thư vú là các khối u biểu mô (ung thư biểu mô) phát triển từ các tế bào lót ống dẫn hoặc tiểu thùy; ung thư không biểu mô của mô đệm hỗ trợ (ví dụ: sarcom mạch máu, sarcoma mô đệm nguyên phát, khối u diệp thể) ít gặp hơn.

Ung thư biểu mô được chia thành ung thư biểu mô tại chỗ và ung thư xâm lấn.

Ung thư biểu mô tại chỗ là tình trạng tăng sinh của các tế bào ung thư trong ống dẫn hoặc tiểu thùy nhưng không xâm lấn mô đệm. Có 2 loại:

  • Ung thư ống tuyến tại chỗ (DCIS): DCIS đề cập đến các tổn thương biểu mô tân sinh khu trú ở các ống dẫn sữa; tổn thương có thể có mô học và tiềm năng ác tính khác nhau. Nó thường chỉ được phát hiện bằng chụp nhũ ảnh. Nó có thể bao gồm diện tích nhỏ hoặc rộng của vú; nếu có một khu vực rộng bị xâm lấn, các tế bào xâm lấn vi mô có thể phát triển theo thời gian. DCIS chiếm khoảng 20% số ca ung thư vú (1). Hai nghiên cứu phân nhóm ngẫu nhiên về DCIS so sánh việc bổ sung bức xạ và tamoxifen vào việc cắt bỏ tại chỗ cho thấy nguy cơ tử vong do DCIS thấp, bất kể lựa chọn điều trị nào được chọn (2).

  • Ung thư biểu mô tiểu thuỳ tế bào tại chỗ (LCIS): LCIS thường đa ổ và hai bên trong khoảng 20% đến 60% số trường hợp (3). Có 2 loại: kinh điển và đa hình (tế bào lớn hơn và không điển hình hơn). LCIS cổ điển không ác tính nhưng làm tăng nguy cơ phát triển tế bào ung thư xâm lấn ở một trong hai vú. Tổn thương không sờ thấy này thường được nghi ngờ dựa trên các chỗ vôi hóa hoặc khối trên chụp nhũ ảnh hoặc siêu âm và được chẩn đoán bằng sinh thiết. Ung thư biểu mô tiểu thuỳ tại chỗ biến hình cũng như ung thư biểu mô ống tuyến cần được cắt bỏ và tránh để sót.

Bệnh Paget của núm vú (không bị lẫn lộn với bệnh xương chuyển hóa, cũng được gọi là bệnh Paget) là một dạng ung thư biểu mô ống tuyến tại chỗ xâm nhập vào da qua núm vú và quầng vú, có biểu hiện tổn thương da (ví dụ như tổn thương dạng chàm hay dạng vảy nến). Các tế bào ác tính gọi là tế bào Paget có mặt trong lớp biểu bì da. Phụ nữ mắc bệnh Paget ở núm vú thường có ung thư xâm lấn hoặc ung thư tại chỗ.

Ung thư biểu mô xâm lấn chủ yếu là ung thư biểu mô tuyến nguyên phát. Khoảng 75% thâm nhiễm mô học ống động mạch và 10% số trường hợp còn lại thâm nhiễm vào tiểu thùy (4).

Ung thư biểu mô có thể biểu hiện thụ thể hormone (khối u mô đệm không biểu hiện thụ thể hormone, ví dụ như khối u diệp thể). Khoảng 80% số bệnh nhân sau mãn kinh và 20% số bệnh nhân tiền mãn kinh bị ung thư vú có khối u dương tính với thụ thể estrogen (ER+) (5); khoảng 70% tổng số ca ung thư vú là dương tính với thụ thể progesterone (6). Một thụ thể tế bào khác là thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì 2 ở người (HER2; còn được gọi là HER2/neu hoặc ErbB2); sự hiện diện của thụ thể này tương quan với tiên lượng xấu hơn ở bất kỳ giai đoạn ung thư nào. Ở khoảng 15% số bệnh nhân ung thư vú, thụ thể HER2 có biểu hiện quá mức (7). Phần lớn bệnh ung thư vú là dương tính với thụ thể hormone và âm tính với HER2 (khoảng 70%); 12% có bộ ba âm tính (âm tính với thụ thể hormone và âm tính với HER2) (7, 8).

Các loại mô học hiếm gặp thường có tiên lượng thuận lợi bao gồm ung thư biểu mô tủy, nhầy, dạng sàng và ống (4). Ung thư biểu mô dạng nhầy có xu hướng phát triển ở phụ nữ cao tuổi và phát triển chậm.

Các loại hiếm gặp thường có tiên lượng xấu bao gồm ung thư vú di căn và viêm. Ung thư vú viêm là một loại ung thư phát triển nhanh, đặc biệt phát triển nhanh và thường gây tử vong. Các tế bào ung thư chặn các mạch bạch huyết trong da vú; như là hậu quả, vú xuất hiện viêm, và da xuất hiện dày lên, giống như vỏ cam sành (màu cam). Thông thường, ung thư vú dạng viêm lan đến các hạch bạch huyết ở nách. Các hạch bạch huyết có cảm giác cứng chắc như khối u. Tuy nhiên, thường không có khối u nào rõ ràng trong vú vì ung thư này thường phân tán khắp vùng vú.

Tài liệu tham khảo

  1. 1. Giaquinto AN, Sung H, Miller KD, et al: Breast Cancer Statistics, 2022. CA Cancer J Clin 72(6):524-541, 2022 doi:10.3322/caac.21754

  2. 2. Wapnir IL, Dignam JJ, Fisher B, et al: Long-term outcomes of invasive ipsilateral breast tumor recurrences after lumpectomy in NSABP B-17 and B-24 randomized clinical trials for DCIS. J Natl Cancer Inst 103(6):478-488, 2011 doi:10.1093/jnci/djr027

  3. 3. Wen HY, Brogi E: Lobular Carcinoma In Situ. Surg Pathol Clin 11(1):123-145, 2018. doi:10.1016/j.path.2017.09.009

  4. 4. American Cancer Society: Breast Cancer Facts & Figures. Truy cập vào ngày 4 tháng 5 năm 2023

  5. 5. Anderson WF, Chatterjee N, Ershler WB, et al: Estrogen receptor breast cancer phenotypes in the Surveillance, Epidemiology, and End Results database. Breast Cancer Res Treat. 2002;76(1):27-36. doi:10.1023/a:1020299707510

  6. 6. Li Y, Yang D, Yin X, et al: Clinicopathological Characteristics and Breast Cancer-Specific Survival of Patients With Single Hormone Receptor-Positive Breast Cancer. JAMA Netw Open 3(1):e1918160, 2020 doi:10.1001/jamanetworkopen.2019.18160

  7. 7. Howlader N, Altekruse SF, Li CI, et al: US incidence of breast cancer subtypes defined by joint hormone receptor and HER2 status. J Natl Cancer Inst 106(5):dju055, 2014. Xuất bản ngày 28 tháng 4 năm 2014. doi:10.1093/jnci/dju055

  8. 8. National Cancer Institute's Surveillance, Epidemiology, and End Results (SEER) Program : Cancer Stat Facts: Female Breast Cancer Subtypes. Truy cập vào ngày 4 tháng 5 năm 2023

Sinh lý bệnh của ung thư vú

Ung thư vú xâm lân tại chỗ và lây lan qua các hạch bạch huyết khu vực, mạch máu, hoặc cả hai. Ung thư vú di căn có thể ảnh hưởng đến hầu hết các cơ quan trong cơ thể-nhất là phổi, gan, xương, não và da. Hầu hết di căn của da xảy ra gần nơi phẫu thuật vú; di căn da đầu không phổ biến.

Một số bệnh ung thư vú có thể tái phát sớm hơn những bệnh khác; tái phát thường có thể được dự đoán dựa trên các chất chỉ điểm khối u. Ví dụ, ung thư vú di căn có thể xảy ra trong vòng 3 năm ở những bệnh nhân âm tính với chất chỉ điểm khối u hoặc xảy ra > 10 năm sau khi chẩn đoán và điều trị ban đầu ở những bệnh nhân có khối u dương tính với thụ thể estrogen.

Thụ thể hormone

Các thụ thể estrogenprogesterone là các thụ thể hormone hạt nhân thúc đẩy quá trình sao chép DNA và phân chia tế bào khi các hormone thích hợp gắn kết với các thụ thể đó. Vì vậy, các loại thuốc ngăn chặn các thụ thể này rất hữu ích trong việc điều trị và ngăn ngừa các khối u gắn với các thụ thể này.

Đối với các khối u trong đó thụ thể HER2 được biểu hiện quá mức, thuốc ngăn chặn các thụ thể này là một phần của phương pháp điều trị tiêu chuẩn. Các khối u biểu hiện quá mức HER2 đáp ứng tốt với các loại thuốc này vì HER2 là động lực quan trọng cho sự phát triển của tế bào ung thư.

Gen ung thư vú

Đột biến gen BRCA1BRCA2 làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú lên 70% (1). Cắt bỏ vú dự phòng hai bên làm giảm nguy cơ ung thư vú tới 90% và nên được áp dụng cho những phụ nữ có đột biến BRCA. Các đột biến di truyền khác làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú bao gồm các đột biến ở CHEK2, PALB2, ATM, RAD51C, RAD51D, BARD1, and TP53, thường được đưa vào xét nghiệm di truyền theo bảng (2).

Tài liệu tham khảo sinh bệnh học

  1. 1. Kuchenbaecker KB, Hopper JL, Barnes DR, et al: Risks of breast, ovarian, and contralateral breast cancer for BRCA1 and BRCA2 mutation carriers. JAMA 317 (23):2402–2416, 2017. doi: 10.1001/jama.2017.7112

  2. 2. Breast Cancer Association Consortium; Dorling L, Carvalho S, Allen J, et al: Breast cancer risk genes — Association analysis in more than 113,000 women. N Engl J Med 4;384 (5):428–439, 2021. doi: 10.1056/NEJMoa1913948

Các triệu chứng và dấu hiệu của ung thư vú

Nhiều trường hợp ung thư vú được phát hiện do bệnh nhân tự sờ thấy khối bất thường hoặc trong khám sức khoẻ định kỳ hay chụp X-quang tuyến vú. Hiếm khi, triệu chứng hiện tại là vú to ra tổng thể hoặc vú dày lên không rõ rệt. Đau vú có thể xuất hiện nhưng hầu như không bao giờ là triệu chứng biểu hiện duy nhất của ung thư vú.

Một số bệnh nhân ung thư vú có dấu hiệu của bệnh di căn (ví dụ như gãy xương bệnh lý, đau bụng, vàng da, khó thở).

Một phát hiện phổ biến trong quá trình khám thực thể là vú hai bên không đối xứng hoặc khối u chiếm diện tích ưu thế - một khối khác biệt rõ rệt so với các mô vú xung quanh. Sự thay đổi mô xơ của vú ở 1/4 vú, thường là ở vùng 1/4 trên ngoài, là đặc trưng của rối loạn lành tính; sự dày lên nhẹ trong một vú nhưng nó cũng có thể là dấu hiệu của bệnh ung thư.

Một số loại ung thư vú biểu hiện với những thay đổi trên da đáng chú ý:

  • Bệnh Paget của núm vú có liên quan đến ung thư biểu mô xâm lấn hoặc ung thư biểu mô tại chỗ và biểu hiện bằng những thay đổi trên da, bao gồm ban đỏ, đóng vảy, đóng vảy và tiết dịch; những thay đổi này thường xuất hiện rất lành tính đến nỗi bệnh nhân bỏ qua chúng, trì hoãn chẩn đoán trong một năm hoặc hơn. Khoảng 50% bệnh nhân mắc bệnh Paget của núm vú khi khám đã có khối bất thường.

  • Ung thư vú dạng viêm biểu hiện bằng ban đỏ và vú to lên, thường không có khối và da có thể đổi màu hoặc dày lên, giống như vỏ cam (peau d’orange). Khối núm vú tiết dịch là phổ biến.

Ung thư vú tiến triển hơn được đặc trưng bởi một hoặc nhiều dấu hiệu sau đây:

  • khối dính vào thành ngực hoặc nằm dưới lớp da

  • các nốt sần hoặc vết loét ở da

Sự xuất hiện của các hạch cố định ở nách cho biết mức độ lan tràn của khối u, như trên xương đòn hoặc nổi hạch dạng mụn nước.

Chẩn đoán ung thư vú

  • Phát hiện ban đầu bằng chụp nhũ ảnh và/hoặc hình ảnh khác (chụp X-quang cắt lớp tuyến vú kỹ thuật số, siêu âm, MRI) hoặc khám vú lâm sàng

  • Sinh thiết, bao gồm phân tích thụ thể estrogenprogesterone và protein HER2

Các triệu chứng, khám lâm sàng vú hoặc kết quả kiểm tra chẩn đoán hình ảnh có thể gợi ý đánh giá chẩn đoán ung thư vú.

Những bệnh nhân có các triệu chứng ở vú (ví dụ như đau, tiết dịch núm vú) hoặc sờ thấy khối vú hoặc các bất thường khác khi khám lâm sàng vú thường được đánh giá ban đầu bằng siêu âm vú. Nếu kết quả siêu âm là bất thường hoặc không xác định, chụp nhũ ảnh sẽ được thực hiện. Nếu kết quả chẩn đoán hình ảnh gợi ý ung thư, sinh thiết sẽ được thực hiện.

Ngay cả khi kiểm tra chẩn đoán hình ảnh âm tính, sinh thiết vẫn cần phải được thực hiện nếu sờ thấy khối u ở vú hoặc các phát hiện thực thể khác gợi ý ung thư. Nếu nghi ngờ ung thư giai đoạn muộn dựa trên khám thực thể, sinh thiết thường được thực hiện trước khi chẩn đoán chụp ảnh; tuy nhiên, chụp quang tuyến vú hai bên trước sinh thiết có thể giúp xác định các khu vực khác cần được sinh thiết và cung cấp cơ sở để tham khảo trong tương lai.

Đối với những bệnh nhân có kết quả chụp quang tuyến vú bất thường, sinh thiết dưới hướng dẫn của hình ảnh sẽ được thực hiện. MRI vú bất thường thường được đánh giá bằng siêu âm để xác định xem có nên thực hiện sinh thiết dưới sự hướng dẫn của siêu âm hay MRI hay không.

Ngọc trai & cạm bẫy

  • Sinh thiết nên được thực hiện nếu các dấu hiệu thực thể (ví dụ, khối có thể sờ thấy) gợi ý ung thư vú, ngay cả khi kết quả chụp quang tuyến vú là âm tính.

Sinh thiết

Sinh thiết dùng kim xuyên qua da được ưu tiên hơn là sinh thiết phẫu thuật. Sinh thiết kim có thể được thực hiện dưới hướng dẫn bởi chẩn đoán hình ảnh hoặc sờ bằng tay. Sinh thiết lập thể (sinh thiết bằng kim dưới hướng dẫn chụp nhũ ảnh được thực hiện trên 2 mặt phẳng và được phân tích bằng máy tính để tạo ra hình ảnh 3 chiều) hoặc sinh thiết dưới hướng dẫn siêu âm thường được sử dụng để cải thiện độ chính xác. Các clip được đặt tại vị trí sinh thiết để có thể xác định được bằng chụp nhũ ảnh.

Nếu không thể thực hiện sinh thiết lõi (ví dụ: tổn thương nằm quá phía sau), có thể thực hiện sinh thiết bằng phẫu thuật; một dây dẫn hướng hoặc hạt kim loại định vị được đưa vào, sử dụng hình ảnh để hướng dẫn, giúp xác định vị trí sinh thiết.

Khi sinh thiết bất kỳ một mẩu bệnh phẩm nào cũng phải được kiểm tra bởi vì nó có thể cho thấy có các tế bào ung thư trong các mạch bạch huyết trên da.

Mẫu được cắt ra phải được chiếu tia X và nên so sánh với chụp X-quang tuyến vú khi sinh thiết để xác định xem tất cả các tổn thương đã được loại bỏ hay chưa. Nếu tổn thương ban đầu có chứa các vi canxi hoá - microcalcifications, chụp X-quang tuyến vú được lặp lại khi vú không còn căng, thường là 6 đến 12 tuần sau khi sinh thiết, để kiểm tra xem các vi can xi hoá còn hay không. Nếu có kế hoạch xạ trị, chụp nhũ ảnh cần phải được lặp lại trước khi bắt đầu xạ trị.

Đánh giá sau khi chẩn đoán ung thư

Sau khi được chẩn đoán ung thư cần đánh giá một cách toàn diện để chuẩn bị phương án theo dõi và điều trị. Nhóm đa ngành quan trọng thường bao gồm một bác sĩ ung bướu ngoại vú, bác sĩ ung bướu nội khoa và bác sĩ ung bướu chuyên về bức xạ.

Một mẫu sinh thiết dương tính nên được phân tích các thụ thể estrogenprogesterone và protein HER2.

Xét nghiệm di truyền

Mạng lưới Ung thư Toàn diện Quốc gia (NCCN) khuyến nghị rằng những bệnh nhân hiện tại ung thư vú hiện tại hoặc tiền sử cá nhân có ung thư vú cần phải được xét nghiệm đột biến gen di truyền có nguy cơ dẫn đến ung thư vú, nếu họ đáp ứng bất kỳ tiêu chuẩn nào sau đây (1):

  • Ung thư vú được chẩn đoán khi ≤ 50 tuổi

  • Chỉ định điều trị để hỗ trợ quyết định sử dụng thuốc ức chế PARP (đối với ung thư di căn) hoặc olaparib (đối với khối u âm tính HER2 có nguy cơ cao)

  • Ung thư vú bộ ba âm tính (khối u không có thụ thể estrogen hoặc progesterone hoặc biểu hiện quá mức protein HER2)

  • Nhiều bệnh ung thư vú nguyên phát (đồng thời hoặc khác thời)

  • Ung thư vú tiểu thùy cộng với tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc bệnh ung thư dạ dày lan tỏa

  • Ung thư vú nam

  • Tổ tiên của người Do Thái Ashkenazi

  • Tiền sử gia đình (tức là họ hàng có quan hệ huyết thống bậc một, bậc hai và bậc ba trong cùng một bên gia đình) mắc bệnh ung thư vú khi ≤ 50 tuổi, ung thư vú ở nam giới, ung thư buồng trứng, ung thư tụy hoặc tuyến tiền liệt di căn hoặc có nguy cơ cao bệnh ung thư

  • Tiền sử gia đình có ≥ 3 người thân mắc bệnh ung thư vú hoặc tuyến tiền liệt

Một số chuyên gia đã khuyến nghị nên tiến hành xét nghiệm di truyền cho tất cả bệnh nhân ung thư vú (2).

Đối với các xét nghiệm này, cách tiếp cận tốt nhất là giới thiệu bệnh nhân đến chuyên gia tư vấn di truyền, người có thể ghi lại chi tiết tiền sử gia đình, tư vấn cho bệnh nhân về những nguy cơ và lợi ích của xét nghiệm di truyền, chọn xét nghiệm thích hợp nhất và giúp giải thích kết quả.

Đánh giá bệnh di căn

Công thức máu (CBC) và xét nghiệm chức năng gan có thể được thực hiện để kiểm tra bệnh di căn.

Bác sĩ chuyên khoa ung thư nên xác định xem có nên đo kháng nguyên carcinoembryonic trong huyết thanh (CEA), kháng nguyên ung thư (CA) 15-3, hoặc CA 27-29 hay không và có nên thực hiện quét xương hay không.

Đối với chụp xương, các chỉ dẫn chung bao gồm:

  • Đau xương

  • Tăng phosphatase kiềm huyết thanh

  • Ung thư giai đoạn III hoặc IV

CT bụng được thực hiện nếu bệnh nhân có bất cứ điều nào sau đây:

  • Kết quả xét nghiệm về gan bất thường

  • Khám bụng hoặc vùng chậu bất thường

  • Ung thư giai đoạn III hoặc IV

CT ngực được thực hiện nếu bệnh nhân có một trong những dấu hiệu sau đây:

  • Các triệu chứng của phổi như thở dốc

  • Ung thư giai đoạn III hoặc IV

MRI thường được bác sĩ phẫu thuật sử dụng để lập kế hoạch trước mổ; nó có thể xác định kích thước khối u, xâm lấn thành ngực và số lượng các khối u.

Phân độ và giai đoạn

Phân loại dựa trên việc kiểm tra mô học được lấy trong sinh thiết. Cấp độ khối u mô tả các tế bào khối u và mô bất thường trông như thế nào dưới kính hiển vi.

Phân giai đoạn dựa theo phân loại TNM (khối u, hạch, di căn) (xem bảng Phân giai đoạn ung thư vú theo giải phẫu). Vì khám lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh thường có độ nhậy kém để xác định hạch xâm lấn, nên giai đoạn bệnh có thể được xem xét trong quá trình phẫu thuật khi hạch vùng được đánh giá kĩ hơn. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân sờ thấy hạch nách bất thường, thì việc siêu âm trước mổ để hướng dẫn cho việc chọc kim hút hoặc sinh thiết kim nên được tiến hành:

  • Nếu kết quả sinh thiết dương tính, việc mổ xẻ hạch bạch huyết ở nách thường được thực hiện trong quá trình phẫu thuật dứt điểm. Tuy nhiên, việc sử dụng hóa trị liệu bổ trợ có thể làm cho sinh thiết hạch gác có thể thực hiện được nếu hóa trị liệu thay đổi tình trạng của hạch từ N1 sang N0. (Kết quả phân tích phần đông lạnh trong phẫu thuật xác định xem có cần thiết phải cắt hạch nách hay không.)

  • Nếu kết quả âm tính, sinh thiết một hạch bạch huyết được gửi đi, liệu trình an toàn hơn, ít sang chấn, có thể được thực hiện thay thế.

Phân loại theo giai đoạn tuân theo các mô hình sau:

  • Mô hình phân giai đoạn giải phẫu, dựa trên giải phẫu của khối u và được sử dụng ở các khu vực trên thế giới nơi không thể lấy chất chỉ điểm sinh học thường xuyên (xem bảng Phân giai đoạn giải phẫu của ung thư vú)

  • Mô hình phân giai đoạn tiên lượng, dựa trên giải phẫu khối u cũng như tình trạng của chất chỉ điểm sinh học và được sử dụng chủ yếu ở Hoa Kỳ

Bảng

Bảo tồn khả năng sinh sản

Bệnh nhân ung thư vú không nên mang thai trong khi đang điều trị ung thư vú. Tuy nhiên, tất cả các bệnh nhân muốn bảo tồn khả năng sinh sản nên được chuyển đến một bác sĩ nội tiết sinh sản để thảo luận về bảo tồn khả năng sinh sản trước khi bắt đầu điều trị toàn thân.

Các lựa chọn để bảo tồn khả năng sinh sản bao gồm

  • Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) kèm theo kích thích buồng trứng và bảo quản lạnh tế bào trứng hoặc phôi

  • Bảo quản lạnh mô buồng trứng hoặc mô tinh hoàn

Loại ung thư vú, điều trị dự kiến, và sở thích của bệnh nhân ảnh hưởng đến loại bảo tồn sinh sản có thể được sử dụng. Ức chế buồng trứng (ví dụ: bằng leuprolide) đã được sử dụng để giảm thiểu quá trình phá hủy trứng bằng hóa trị.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

  1. 1. National Comprehensive Cancer Network (NCCN): Guidelines, Breast Cancer Version 4.2023.

  2. 2. Manahan ER, Kuerer HM, Sebastian M, et al. Consensus Guidelines on Genetic Testing for Hereditary Breast Cancer from the American Society of Breast Surgeons. Ann Surg Oncol 26(10):3025-3031, 2019 doi:10.1245/s10434-019-07549-8

Điều trị ung thư vú

  • Phẫu thuật

  • Liệu pháp bức xạ

  • Hóa trị liệu toàn thân

  • Liệu pháp nội tiết bổ trợ

Để biết thêm thông tin chi tiết về điều trị, hãy xem Hướng dẫn Thực hành Lâm sàng của Mạng lưới Ung thư Toàn diện Quốc gia (NCCN): Ung thư vú.

Đối với hầu hết các loại ung thư vú, việc điều trị bao gồm phẫu thuật và xạ trị; Liệu pháp toàn thân được áp dụng khi có tổn thương hạch bạch huyết hoặc bệnh di căn. Lựa chọn điều trị phụ thuộc vào đặc điểm của khối u và bệnh nhân (xem bảng Điều trị theo loại ung thư vú). Các khuyến cáo cho phẫu thuật đang được tiến hành và bao gồm việc giới thiệu sớm đến một bác sĩ phẫu thuật tạo hình hoặc tái tạo để phẫu thuật nội soi (kết hợp loại bỏ ung thư với tái tạo vú).

Bảng

Phẫu thuật

Phẫu thuật bao gồm phẫu thuật cắt bỏ vú hoặc phẫu thuật bảo tồn vú.

Phẫu thuật cắt bỏ vú là loại bỏ toàn bộ vú và bao gồm các loại sau:

  • Phẫu thuật cắt bỏ vú hạn chế bỏ da: Tiết giảm cơ ngực và da đủ để che vết thương, làm cho việc tái tạo vú trở nên dễ dàng hơn, và hạch bạch huyết hạch nách không vét

  • Phẫu thuật cắt bỏ vú để lại núm vú: Giống như phương pháp phẫu thuật hạn chế bỏ da cộng thêm để lại núm vú và quầng vú

  • Phẫu thuật cắt bỏ vú đơn giản: Để lại các cơ ngực và hạch bạch huyết ở nách

  • Phẫu thuật cắt bỏ vú rộng cải biên: Để lại các cơ ngực và loại bỏ một số hạch bạch huyết ở nách

  • Phẫu thuật cắt bỏ vú rộng: Loại bỏ các hạch bạch huyết ở ngực và các cơ ngực

Phẫu thuật cắt bỏ vú triệt căn hiếm khi được thực hiện trừ khi ung thư đã xâm lấn cơ ngực.

Phẫu thuật bảo tồn vú bao gồm việc xác định kích thước của khối u và các lề rìa cần thiết (dựa trên kích thước của khối u so với thể tích của vú), sau đó phẫu thuật cắt bỏ khối u với lề rìa của nó. Các thuật ngữ khác nhau (ví dụ: cắt bỏ khối u, cắt bỏ rộng, cắt bỏ phần tư) được sử dụng để mô tả lượng mô vú bị cắt bỏ.

Đối với những bệnh nhân bị ung thư xâm lấn, tỷ lệ có thời gian sống thêm và tỷ lệ tái phát sau phẫu thuật cắt bỏ vú không khác biệt đáng kể so với những bệnh nhân phẫu thuật bảo tồn vú kết hợp xạ trị miễn là có thể cắt bỏ toàn bộ khối u (1).

Vì vậy, ưu tiên của bệnh nhân là một phần của việc ra quyết định chung. Ưu điểm chính của phẫu thuật bảo tồn vú cộng với xạ trị là ít phẫu thuật rộng rãi hơn và có cơ hội giữ được vú. Nhu cầu cắt bỏ toàn bộ khối u có bờ không có khối u quan trọng hơn bất kỳ cân nhắc nào về thẩm mỹ. Tham khảo ý kiến bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ về phẫu thuật tạo hình trong ung thư có thể hữu ích nếu bệnh nhân có ngực xệ (chảy xệ), đồng thời đạt được biên độ cắt bỏ hiệu quả.

Một số bác sĩ chuyên khoa ung bướu điều trị bằng hóa trị bổ trojwc trước phẫu thuật để thu nhỏ khối u trước khi cắt bỏ và áp dụng xạ trị; do đó, một số bệnh nhân lẽ ra phải phẫu thuật cắt bỏ vú có thể được phẫu thuật bảo tồn vú.

Đánh giá hạch bạch huyết

Trong cả phẫu thuật cắt bỏ vú và phẫu thuật bảo tồn vú, các hạch bạch huyết ở nách thường được đánh giá. Các phương pháp bao gồm

  • Phẫu thuật cắt bỏ hạch bạch huyết ở nách (ALND)

  • Sinh thiết hạch bạch huyết tiền tiêu (SLNB)

ALND là một thủ thuật khá rộng bao gồm việc loại bỏ càng nhiều hạch nách càng tốt; tác dụng phụ, đặc biệt là phù bạch huyết, là phổ biến. Nguy cơ phù bạch huyết tăng lên đối với những bệnh nhân có chỉ số khối cơ thể trước phẫu thuật cao (BMI ≥ 30) và đối với những người tăng cân đáng kể trong và sau khi điều trị ung thư vú (2).

Hầu hết các bác sĩ phẫu thuật hiện nay thực hiện SLNB trước tiên trừ khi sinh thiết các hạch nghi ngờ trên lâm sàng phát hiện ung thư; nguy cơ bị phù bạch huyết ít hơn với SLNB. Thường xuyên sử dụng ALND không được chứng minh bởi vì giá trị chính của việc loại bỏ hạch bạch huyết là chẩn đoán, không điều trị, và SLNB có độ nhạy 95% đối với các hạch nách thâm nhiễm.

Đối với SLNB, thuốc nhuộm màu xanh lam và/hoặc chất keo phóng xạ được tiêm quanh vú và một đầu dò gamma (và khi sử dụng thuốc nhuộm, kiểm tra trực tiếp) được sử dụng để xác định vị trí các hạch mà chất đánh dấu chảy vào. Bởi vì các hạch này là những hạch đầu tiên nhận được các chất lạ, chúng được xem là có nhiều khả năng hơn nhận bất kỳ tế bào di căn và do đó được gọi là các hạch tiền tiêu.

Nếu bất kỳ hạch tiền tiêu nào có các tế bào ung thư, ALND có thể là cần thiết, dựa trên nhiều yếu tố như sau

  • Giai đoạn ung thư

  • Tình trạng cảm thụ Hormone

  • Số hạch bị thâm nhiễm

  • Mở rộng ra các hạch ngoài

  • Đặc điểm bệnh nhân (3)

Một số bác sĩ phẫu thuật phân tích cắt lạnh trong quá trình cắt bỏ vú với SLNB và có được sự đồng ý trước đẻ làm ALND trong trường hợp các hạch dương tính; những người khác chờ đợi kết quả bệnh lý chuẩn và làm ALND như là một thủ thuật thì 2 nếu cần. Phân tích cắt lạnh thường không được thực hiện thường xuyên khi cắt bỏ khối u.

Suy giảm bạch huyết của cánh tay cùng bên thường xảy ra sau khi cắt bỏ hạch nách (ALND hoặc SLNB) hoặc xạ trị, đôi khi dẫn đến sưng tấy đáng kể do phù bạch mạch. Tầm quan trọng là phù bạch mạch tỷ lệ thuận với số lượng các hạch được loại bỏ; do đó, SLNB gây ra phù bạch mạch ít hơn so với ALND. Nguy cơ phù bạch mạch sau ALND là khoảng 25%. Tuy nhiên, ngay cả với SLNB, vẫn có 6% nguy cơ bị phù bạch huyết suốt đời (4). Để giảm nguy cơ bị phù bạch huyết, các bác sĩ lâm sàng thường tránh truyền tĩnh mạch ở bên có thương tổn. Mặc quần áo chật và ngăn ngừa nhiễm trùng ở vùng tay bị ảnh hưởng (ví dụ bằng cách đeo găng tay khi làm việc ngoài sân) là rất quan trọng. Đôi khi cũng nên tránh đo huyết áp và chọc tĩnh mạch cùng bên, mặc dù bằng chứng hỗ trợ là rất ít (5). 

Nếu phù bạch huyết phát triển, một chuyên viên trị liệu được huấn luyện đặc biệt phải điều trị nó. Các kỹ thuật xoa bóp đặc biệt được sử dụng một hoặc hai lần mỗi ngày có thể giúp làm giảm chất lỏng từ các khu vực bị tắc nghẽn đối với các hạch lymphô hoạt động; băng nhỏ được áp dụng ngay sau khi dẫn lưu dịch, và bệnh nhân nên tập thể dục hàng ngày theo quy định. Sau khi giảm phù bạch huyết, điển hình là từ 1 đến 4 tuần, bệnh nhân tiếp tục tập thể dục hàng ngày và băng chặt qua đêm của cánh tay bị ảnh hưởng.

Quá trình phục hồi thẩm mỹ

Quá trình phục hồi thẩm mỹ bao gồm:

  • Phục hồi bằng bộ phận giả: Đặt bộ phận bằng silicon hoặc nước muối, đôi khi sau khi sử dụng một tổ chức làm giãn nở

  • Phục hồi bằng tái tạo tự thân: Dịch chuyển cơ bắp (sử dụng cơ lưng, cơ mông, hoặc cơ bụng dưới) hoặc chuyển cơ không có bắp

Việc tái tạo vú có thể được thực hiện trong quá trình phẫu thuật cắt bỏ vú hoặc phẫu thuật bảo tồn vú hoặc sau đó là một thủ thuật riêng biệt. Thời gian của phẫu thuật phụ thuộc vào sự ưu tiên của bệnh nhân cũng như nhu cầu điều trị bổ trợ như là xạ trị. Tuy nhiên, việc điều trị bằng xạ trị trước, làm giới hạn loại phẫu thuật tái tạo có thể được thực hiện. Vì vậy, tư vấn bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ sớm trong kế hoạch điều trị được khuyến cáo.

Ưu điểm của việc tái tạo vú bao gồm cải thiện sức khoẻ tâm thần ở bệnh nhân đã được cắt bỏ vú. Nhược điểm bao gồm các biến chứng phẫu thuật và các phản ứng phụ lâu dài có thể xảy ra với cấy ghép.

Cắt bỏ vú dự phòng bên

Cắt bỏ vú dự phòng đối bên là một lựa chọn cho một số phụ nữ bị ung thư vú (ví dụ, những người bị đột biến gen có nguy cơ cao bị ung thư vú).

Ở phụ nữ bị ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ ở một vú, ung thư xâm lấn có khả năng phát triển ở cả hai vú. Do đó, cách duy nhất để loại bỏ nguy cơ ung thư vú cho những phụ nữ này là phẫu thuật cắt bỏ vú hai bên. Một số phụ nữ, đặc biệt là những người có nguy cơ cao bị ung thư vú xâm lấn, chọn phương án này.

Ưu điểm của phẫu thuật cắt bỏ vú dự phòng hai bên bao gồm

  • Giảm nguy cơ ung thư vú hai bên (đặc biệt ở phụ nữ trong gia đình có tiền sử ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng)

  • Cải thiện thời gian sống thêm ở bệnh nhân ung thư vú có đột biến gen di truyền (ví dụ: đột biến BRCA1 hoặc BRCA2) và có thể ở phụ nữ được chẩn đoán ở độ tuổi < 50 tuổi

  • Giảm lo lắng ở một số bệnh nhân

  • Giảm nhu cầu cho các biện pháp hình ảnh phức tạp để theo dõi

Nhược điểm của phẫu thuật cắt bỏ vú dự phòng hai bên bao gồm

  • Tỷ lệ biến chứng phẫu thuật tăng gần gấp đôi

Không bắt buộc phải cắt bỏ vú dự phòng đối bên đối với những bệnh nhân có nguy cơ phát triển ung thư cao nhất ở vú đối bên. Giám sát chặt chẽ là một sự thay thế hợp lý.

Liệu pháp bức xạ

Xạ trị sau khi phẫu thuật bảo tồn vú làm giảm đáng kể tỷ lệ tái phát tại chỗ ở vú và ở các hạch bạch huyết khu vực và có thể cải thiện sự sống còn tổng thể. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân > 70 tuổi và bị ung thư vú ER+ giai đoạn đầu, việc bổ sung xạ trị để cắt bỏ khối u cộng với tamoxifen có thể không cần thiết; việc bổ sung xạ trị không làm giảm đáng kể tỷ lệ phẫu thuật cắt bỏ vú đối với tái phát tại chỗ hoặc xuất hiện di căn xa cũng như không làm tăng tỷ lệ về thời gian sống thêm (6).

Xạ trị được chỉ định sau khi cắt bỏ vú nếu có bất kỳ dấu hiệu nào sau đây:

  • Khối u nguyên phát ≥ 5 cm.

  • Hạch nách bị thâm nhiễm.

  • Bờ dương tính với ung thư ở mô bị cắt bỏ.

Trong những trường hợp như vậy, xạ trị sau cắt bỏ vú làm giảm đáng kể tỷ lệ tái phát tại chỗ trên thành ngực và ở các hạch bạch huyết khu vực và cải thiện sự sống còn tổng thể.

Tác dụng bất lợi của xạ trị (ví dụ như mệt mỏi, thay đổi da) thường nhẹ và thoáng qua. Tác dụng phụ muộn (ví dụ như phù bạch huyết, đau thắt ngực, viêm phổi do xạ trị, tổn thương xương sườn, ung thư thứ phát, độc tính tim) ít gặp hơn.

Để cải thiện xạ trị, các nhà nghiên cứu đang nghiên cứu một số phương pháp mới. Nhiều trong số các phương pháp này nhằm mục đích nhắm vào bức xạ tới ung thư một cách chính xác hơn và giúp phần còn lại của vú không bị ảnh hưởng bởi bức xạ.

Liệu pháp bổ trợ toàn thân

(Xem thêm Hướng dẫn thực hành lâm sàng của Mạng lưới Ung thư Toàn diện Quốc gia (NCCN): Ung thư Vú.)

Liệu pháp nội tiết, hóa trị hoặc liệu pháp điều trị theo hướng HER2 làm trì hoãn hoặc ngăn ngừa tái phát ở hầu hết các bệnh nhân và kéo dài thời gian sống thêm ở một số bệnh nhân. Ung thư dương tính với nội tiết tố có thể được đánh giá bằng Oncotype Dx, cho phép hóa trị nhắm đích và liệu pháp nội tiết đến những quần thể có nhiều khả năng được hưởng lợi nhất. Ung thư âm tính với hormone và ung thư dương tính với HER2 được điều trị bằng hóa trị và liệu pháp nhắm đích.

Các quyết định về loại liệu pháp bổ trợ được đưa ra dựa trên đặc điểm của khối u, bao gồm tình trạng thụ thể estrogen (ER) và thụ thể progesterone (PR), sự hiện diện của protein yếu tố tăng trưởng biểu bì 2 (HER2) ở người, cấp độ và giai đoạn (bao gồm cả thương tổn của hạch bạch huyết), và phân tầng nguy cơ về bộ gen. Một số bệnh nhân được điều trị bằng dạng phối hợp giữa liệu pháp nội tiết và hóa trị.

Hóa trị thường được bắt đầu ngay sau khi phẫu thuật. Nếu không cần hóa trị liệu toàn thân, liệu pháp nội tiết thường được bắt đầu ngay sau khi phẫu thuật và được tiếp tục trong 5 đến 10 năm.

Ở giai đoạn bệnh cao hơn, hóa trị tân bổ trợ có thể được bắt đầu trước khi phẫu thuật.

Bảng

Liệu pháp nội tiết

Ở những bệnh nhân có khối u ER+, đặc biệt là các khối u có nguy cơ thấp, liệu pháp nội tiết thường được áp dụng. Xét nghiệm bộ gen dự đoán của bệnh ung thư vú nguyên phát được sử dụng để phân loại nguy cơ ở bệnh nhân và để xác định liệu chỉ định hóa trị liệu phối hợp hay liệu pháp nội tiết đơn thuần. Các xét nghiệm tiên lượng thông thường bao gồm

  • Xét nghiệm điểm tái phát 21 gen (dựa trên Oncotype Dx)

  • Hồ sơ 70 gen Amsterdam (MammaPrint)

  • 50-gen nguy cơ của điểm tái phát (PAM50)

Tại Hoa Kỳ, hầu hết phụ nữ mắc bệnh ung thư vú đều bị bệnh ung thư vú ER+/PR+/HER2- không có các hạch nách. Ở những phụ nữ này, điểm thấp hoặc trung bình trong xét nghiệm điểm tái phát 21 gen dự đoán tỷ lệ sống sót tương tự với hóa trị cộng với liệu pháp nội tiết và chỉ với liệu pháp nội tiết. Do đó, trong nhóm phụ nữ bị ung thư vú này, hóa trị có thể không cần thiết.

Với liệu pháp nội tiết (ví dụ: tamoxifen, thuốc ức chế aromatase), lợi ích phụ thuộc vào biểu hiện của thụ thể estrogenprogesterone; Lợi ích là lớn nhất khi mức độ biểu hiện thụ thể hormone mạnh nhất (7). Các loại thuốc dùng để điều trị nội tiết bao gồm tamoxifen và thuốc ức chế aromatase.

Tamoxifen là một thuốc điều biến thụ thể estrogen chọn lọc, gắn kết cạnh tranh với các thụ thể estrogen. Thuốc bổ trợ tamoxifen làm giảm tỷ lệ tử vong do ung thư vú ở phụ nữ có khối u có thụ thể estrogen. Điều trị bằng tamoxifen trong 5 năm làm giảm tỷ lệ tử vong hàng năm khoảng 25% ở phụ nữ tiền mãn kinh và phụ nữ hậu mãn kinh bất kể có liên quan đến hạch nách hay không (8). Điều trị trong 10 năm thậm chí còn hiệu quả hơn; nó kéo dài thời gian sống thêm và giảm nguy cơ tái phát so với 5 năm điều trị (tái phát 15 năm giảm từ 25% xuống 21%) (9). Tamoxifen có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm các triệu chứng mãn kinh nhưng làm giảm tỉ lệ mắc ung thư vú bên đối diện và làm giảm cholesterol huyết thanh. Tamoxifen làm tăng mật độ xương ở phụ nữ sau mãn kinh và có thể làm giảm nguy cơ gãy xương và bệnh thiếu máu cục bộ ở tim. Tuy nhiên, nó làm tăng đáng kể nguy cơ phát triển ung thư niêm mạc tử cung; tỷ lệ báo cáo là 1% ở phụ nữ sau mãn kinh sau 5 năm sử dụng. Do đó, nếu những phụ nữ đó phát hiện ra thấm máu hoặc chảy máu, họ phải được đánh giá về ung thư niêm mạc tử cung. Tuy nhiên, sự sống còn được cải thiện của phụ nữ bị ung thư vú lại vượt trội so với nguy cơ tử vong do ung thư nội mạc tử cung. Nguy cơ thuyên tắc huyết khối cũng tăng lên.

Các thuốc ức chế aromatase (anastrozole, exemestane, letrozole) ngăn chặn việc sản sinh estrogen ở ngoại vi ở phụ nữ sau mãn kinh. Hiệu quả hơn tamoxifen, những loại thuốc này đang trở thành phương pháp điều trị ưu tiên cho bệnh ung thư dương tính với thụ thể hormone giai đoạn đầu ở bệnh nhân sau mãn kinh. Letrozole có thể được sử dụng ở những phụ nữ sau mãn kinh đã hoàn thành điều trị tamoxifen. Thời gian điều trị kéo dài tối ưu của liệu pháp ức chế aromatase là không chắc chắn. Một thử nghiệm gần đây cho thấy việc kéo dài thời gian điều trị đến 10 năm dẫn đến tỷ lệ tái phát ung thư vú thấp hơn và tỉ lệ sống sót không bệnh cao hơn. Không có sự thay đổi về tỉ lệ sống sót chung (và tỷ lệ gãy xương và loãng xương cao hơn) ở những bệnh nhân được điều trị trong một thời gian dài.

Bệnh nhân với DCIS thường được điều trị với tamoxifen uống hàng ngày.

Liệu pháp ưu tiên dành cho phụ nữ tiền mãn kinh mắc bệnh ung thư vú ER+ thường là tamoxifen hoặc ức chế buồng trứng (thường là với leuprolide, thuốc chủ vận GnRH) phối hợp với thuốc ức chế aromatase. Đối với phụ nữ sau mãn kinh, thuốc ức chế aromatase được ưu tiên hơn. Các thuốc ức chế CDK 4/6, chẳng hạn như palbociclib, ribociclib và abemaciclib, cũng được sử dụng cho những bệnh nhân ung thư HER2 âm tính với thụ thể hormone. Olaparib được sử dụng ở những bệnh nhân có dòng mầm BRCA1 và 2 đột biến với ung thư vú âm tính HER2.

Hóa trị bổ trợ

Các chỉ định thông thường cho hóa trị là một hoặc nhiều trong các chỉ định sau:

  • Thụ thể estrogen (ER) và thụ thể progesterone (PR) âm tính

  • Yếu tố tăng trưởng biểu bì 2 (HER2) dương tính với gen gây ung thư ở người (điều trị bằng hóa trị và điều trị theo hướng HER2)

  • ER/PR+ và các hạch bạch huyết dương tính ở bệnh nhân tiền mãn kinh

  • ER/PR+ và HER2- có điểm Oncotype Dx cao

Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng hóa trị không cần thiết đối với nhiều khối u nhỏ (< 0,5 đến 1 cm) không xâm lấn hạch (đặc biệt là ở bệnh nhân sau mãn kinh) vì tiên lượng đã rất tốt (10).

Bệnh nhân sau mãn kinh có khối u ER− được hưởng lợi nhiều nhất từ hóa trị liệu bổ trợ (xem bảng Liệu pháp hệ thống bổ trợ ung thư vú được ưu tiên).

Phác đồ hóa trị phối hợp có hiệu quả hơn so với dùng một loại thuốc. Phác đồ liều lượng đậm đặc dùng cho 4 đến 6 tháng được ưu tiên hơn; trong phác đồ liều lượng đậm đặc, thời gian giữa các liều thường ngắn hơn thời gian giữa các liều dùng trong liều chuẩn. Có rất nhiều phác đồ; một phác đồ thường dùng là ACT (doxorubicin cộng cyclophosphamide và sau đó là paclitaxel). Tác dụng phụ cấp tính phụ thuộc vào phác đồ nhưng thường bao gồm buồn nôn, nôn ói, viêm niêm mạc, mệt mỏi, rụng tóc, giảm bạch cầu, suy tim do độc và giảm tiểu cầu. Các yếu tố tăng kích thích tủy xương (ví dụ, filgrastim, pegfilgrastim) thường được sử dụng để giảm nguy cơ sốt và nhiễm trùng do hóa trị liệu. Tác dụng phụ lâu dài không thường xuyên với hầu hết các phác đồ; tử vong do nhiễm trùng hoặc chảy máu rất hiếm (< 0,2%).

Liệu pháp theo định hướng HER2

Nếu khối u biểu hiện quá mức HER2 (HER2+), có thể sử dụng kháng thể đơn dòng kháng HER2 (trastuzumab, pertuzumab). Thêm chất chống oxy hoá kháng thể đơn giá humanizstab vào hóa trị sẽ mang lại lợi ích đáng kể. Trastuzumab thường được tiếp tục trong một năm, mặc dù thời gian điều trị tối ưu thì không được biết. Nếu có liên quan đến các hạch bạch huyết, thêm pertuzumab vào trastuzumab giúp cải thiện thời gian sống thêm không bệnh. Tác dụng bất lợi nghiêm trọng tiềm ẩn của cả hai loại thuốc chống HER2 này là giảm phân suất tống máu của tim.

Bệnh di căn

Bất cứ dấu hiệu di căn nào cũng cần phải được đánh giá ngay. Điều trị di căn làm tăng tỷ lệ sống sót trung bình khoảng 6 tháng hoặc lâu hơn. Những phương pháp điều trị này (ví dụ hóa trị liệu), mặc dù tương đối độc, có thể giảm triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống. Do đó, quyết định để được điều trị có thể mang tính cá nhân cao.

Lựa chọn điều trị phụ thuộc vào những điều sau:

  • Tình trạng nội tiết tố của khối u

  • Chiều dài của khoảng thời gian không bệnh (từ sự thuyên giảm cho đến khi có biểu hiện di căn)

  • Số lượng các vị trí di căn và các cơ quan bị ảnh hưởng

  • Tình trạng mãn kinh của bệnh nhân

Liệu pháp nội tiết toàn thân hoặc hóa trị liệu thường được sử dụng để điều trị bệnh di căn có triệu chứng. Ban đầu, những bệnh nhân có nhiều vị trí di căn ngoài hệ thần kinh trung ương (CNS) nên được điều trị toàn thân. Nếu di căn không có triệu chứng, không có bằng chứng nào cho thấy việc điều trị tăng đáng kể sự sống sót, và nó có thể làm giảm chất lượng cuộc sống.

Liệu pháp nội tiết được ưu tiên hơn hóa trị liệu cho bệnh nhân với bất kỳ điều nào sau đây:

  • Khối u ER+

  • Khoảng thời gian không bệnh > 2 năm

  • Bệnh không đe dọa mạng sống ngay lập tức

Ở phụ nữ tiền mãn kinh, tamoxifen thường được sử dụng đầu tiên. Các lựa chọn thay thế hợp lý bao gồm cắt bỏ buồng trứng bằng phẫu thuật, xạ trị và sử dụng chất kích thích hormone đồng vận tiết ra lutein GnRh (ví dụ buserelin, goserelin, leuprolide). Một số chuyên gia kết hợp cắt bỏ buồng trứng với tamoxifen hoặc chất ức chế aromatase. Ở phụ nữ sau mãn kinh, các thuốc ức chế aromatase ngày càng được sử dụng nhiều hơn như một liệu pháp nội tiết chính. Nếu ban đầu ung thư đáp ứng với liệu pháp nội tiết nhưng tiến triển nhiều tháng hoặc nhiều năm sau đó, các dạng điều trị nội tiết bổ sung (ví dụ, progestin, thuốc kháng estrogen fulvestrant) có thể được sử dụng tuần tự cho đến khi không còn đáp ứng nữa.

Các tác nhân hóa trị hiệu quả nhất là capecitabine, doxorubicin (bao gồm cả công thức bào chế có hạt mỡ của thuốc này), gemcitabine, taxanes paclitaxel và docetaxel, và vinorelbine. Tỷ lệ đáp ứng với dạng phối hợp của các loại thuốc cao hơn so với một loại thuốc đơn lẻ, nhưng thời gian sống thêm không được cải thiện và độc tính tăng lên. Vì vậy, một số bác sĩ chuyên khoa ung bướu sử dụng các loại thuốc đơn lẻ một cách tuần tự.

Các kháng thể đơn dòng kháng HER2 (ví dụ: trastuzumab, pertuzumab) được sử dụng để điều trị các khối u biểu hiện quá mức HER2. Các thuốc này có hiệu quả trong việc điều trị và kiểm soát các vị trí di căn nội tạng. Trastuzumab được sử dụng đơn độc hoặc với liệu pháp nội tiết, hóa trị hoặc pertuzumab. Trastuzumab kết hợp với hóa trị liệu kết hợp với pertuzumab làm chậm sự phát triển của ung thư vú di căn HER2+ và tăng thời gian sống thêm hơn trastuzumab kết hợp với hóa trị liệu (11).

Chất ức chế tyrosine kinase (ví dụ, lapatinib, neratinib) đang được sử dụng ngày càng nhiều ở phụ nữ có khối u HER2+.

Liệu pháp tia xạ đơn độc có thể được sử dụng để điều trị độc lập, các tổn thương xương có triệu chứng hoạc tổn thương da tái phát tại chỗ không thuận lợi để phẫu thuật cắt bỏ. Liệu pháp xạ trị là phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho di căn não, đôi khi kiểm soát được lâu dài.

Phẫu thuật cắt bỏ vú giảm nhẹ đôi khi là một lựa chọn cho các bệnh nhân ung thư vú di căn ổn định.

Bisphosphonates truyền tĩnh mạch (ví dụ pamidronate, zoledronate) giảm đau xương và mất xương và ngăn ngừa hoặc làm chậm lại các biến chứng xương do di căn xương. Khoảng 10% bệnh nhân di căn xương cuối cùng đã bị tăng calci máu, điều này cũng có thể được điều trị bằng bisphosphonates tiêm tĩnh mạch.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Fisher B, Anderson S, Bryant J, et al. Twenty-year follow-up of a randomized trial comparing total mastectomy, lumpectomy, and lumpectomy plus irradiation for the treatment of invasive breast cancer. N Engl J Med 347(16):1233-1241, 2002 doi:10.1056/NEJMoa022152

  2. 2. Jammallo LS, Miller CL, Singer M, et al: Impact of body mass index and weight fluctuation on lymphedema risk in patients treated for breast cancer. Breast Cancer Res Treat 142 (1):59–67, 2013. doi: 10.1007/s10549-013-2715-7

  3. 3. Giuliano AE, Hunt KK, Ballman KV, et al: Axillary dissection vs no axillary dissection in women with invasive breast cancer and sentinel node metastasis: A randomized clinical trial. JAMA 305 (6):569-575, 2011. doi: 10.1001/jama.2011.90

  4. 4. Krag DN, Anderson SJ, Julian TB, et al: Sentinel-lymph-node resection compared with conventional axillary-lymph-node dissection in clinically node-negative patients with breast cancer: overall survival findings from the NSABP B-32 randomised phase 3 trial. Lancet Oncol 11(10):927-933, 2010 doi:10.1016/S1470-2045(10)70207-2

  5. 5. National Lymphedema Network Medical Advisory Committee: Position Statement Paper: Lymphedema Risk Reduction Practices. Tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2023.

  6. 6. Hughes KS, Schnaper LA, Berry D, et al: Lumpectomy plus tamoxifen with or without irradiation in women 70 years of age or older with early breast cancer. N Engl J Med 351 (10):971-977, 2004. doi:10.1056/NEJMoa040587

  7. 7. Fisher B, Anderson S, Tan-Chiu E, et al: Tamoxifen and chemotherapy for axillary node-negative, estrogen receptor-negative breast cancer: findings from National Surgical Adjuvant Breast and Bowel Project B-23. J Clin Oncol 19(4):931-942, 2001 doi:10.1200/JCO.2001.19.4.931

  8. 8. Early Breast Cancer Trialists' Collaborative Group (EBCTCG): Effects of chemotherapy and hormonal therapy for early breast cancer on recurrence and 15-year survival: an overview of the randomised trials. Lancet 365(9472):1687-1717, 2005 doi:10.1016/S0140-6736(05)66544-0

  9. 9. Davies C, Pan H, Godwin J, et al: Long-term effects of continuing adjuvant tamoxifen to 10 years versus stopping at 5 years after diagnosis of oestrogen receptor-positive breast cancer: ATLAS, a randomised trial [published correction appears in Lancet. Ngày 9 tháng 3 năm 2013;381(9869):804] [bản chỉnh sửa đã xuất bản trên Lancet. Ngày 13 tháng 5 năm 2017;389(10082):1884]. Lancet 381(9869):805-816, 2013 doi:10.1016/S0140-6736(12)61963-1

  10. 10. Rosen PP, Saigo PE, Braun DW Jr, et al: Predictors of recurrence in stage I (T1N0M0) breast carcinoma. Ann Surg 193(1):15-25, 1981 doi:10.1097/00000658-198101000-00003

  11. 11. Swain SM, Baselga J, Kim SB, et al: Pertuzumab, trastuzumab, and docetaxel in HER2-positive metastatic breast cancer. N Engl J Med 372 (8):724-734, 2015. doi: 10.1056/NEJMoa1413513

Tiên lượng về ung thư vú

Tiên lượng xa phụ thuộc vào giai đoạn u. Tình trạng hạch (bao gồm số lượng và vị trí của các hạch) tương quan với tỷ lệ sống không mắc bệnh và tỷ lệ sống còn tốt hơn bất kỳ yếu tố tiên lượng nào khác.

Tỷ lệ sống sót 5 năm (từ Viện Ung thư Quốc gia Surveillance, Epidemiology, and End Results (SEER) Program) phụ thuộc vào giai đoạn ung thư:

  • Tại chỗ (giới hạn ở vị trí ban đầu): 99,0%

  • Khu vực (giới hạn ở hạch bạch huyết vùng): 85,8%

  • di căn xa (metastasized): 29,0%

  • Không xác định: 57,8%

Tiên lượng xấu có liên quan đến các yếu tố sau:

  • Tuổi trẻ: Tiên lượng xấu hơn ở những bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú trong độ tuổi 20 và 30 so với những bệnh nhân được chẩn đoán ở tuổi trung niên.

  • Chủng tộc: Tỷ lệ tử vong do ung thư vú từ năm 2015 đến năm 2019 ở Hoa Kỳ ở phụ nữ da đen không phải gốc Tây Ban Nha (28 trên 100.000) so với phụ nữ da trắng không phải gốc Tây Ban Nha (19,9 trên 100.000 [1]). Phụ nữ da đen có chẩn đoán ở độ tuổi trẻ hơn so với phụ nữ Da trắng (trung bình 60 tuổi so với 63 tuổi) và có nhiều khả năng bị bệnh bộ ba âm tính hơn (2).

  • Khối u nguyên phát lớn: Các khối u lớn hơn có nhiều khả năng có hạch dương tính, nhưng chúng cũng đưa ra tiên lượng xấu mà không phụ thuộc vào tình trạng hạch.

  • Khối u biệt hoá cao: Bệnh nhân có khối u có độ biệt hóa thấp có tiên lượng xấu hơn.

  • Không có thụ thể estrogenprogesterone: Bệnh nhân với các khối u có ER+ có tiên lượng tốt hơn một chút và có nhiều khả năng được hưởng lợi từ liệu pháp nội tiết. Bệnh nhân có thụ thể progesterone trên một khối u cũng có thể có tiên lượng tốt hơn. Bệnh nhân có cả hai thụ thể estrogenprogesterone trên một khối u có thể có tiên lượng tốt hơn những người chỉ có một trong những thụ thể này, nhưng lợi ích này không rõ ràng.

  • Sự hiện diện của protein HER2: Khi mà gen HER2 (HER2/neu [erb-b2] được khuếch đại, HER2 bị kích thích quá mức, tăng tế bào phát triển, sinh sản và thường dẫn đến các tế bào khối u có độ ác tính hơn. Sự biểu hiện quá mức HER2 là một yếu tố nguy cơ độc lập cho thấy tiên lượng xấu; nó cũng có thể liên quan với mức độ mô học cao, khối u ER-, tăng sinh nhanh hơn, và kích thước khối u lớn hơn, đó là tất cả các yếu tố tiên lượng thấp.

  • Sự hiện diện của : Đối với bất kỳ giai đoạn nhất định, bệnh nhân có gen BRCA1 dường như có tiên lượng xấu hơn so với những người có khối u đơn lẻ, có lẽ vì họ có tỷ lệ ung thư biểu mô ở độ mô học cao và thụ thể hormone âm tính. Bệnh nhân có gen BRCA2 có lẽ có cùng tiên lượng như những người không có gen nếu các khối u có những đặc điểm tương tự. Với một trong hai gen, nguy cơ ung thư thứ 2 ở vú còn lại sẽ tăng lên (có thể lên đến 40%).

Các vấn đề giai đoạn cuối đời

Đối với bệnh nhân ung thư vú di căn, chất lượng cuộc sống có thể xấu đi, và khả năng tiếp tục điều trị để kéo dài cuộc sống có thể là nhỏ. Sự giảm nhẹ đau đớn cuối cùng có thể trở nên quan trọng hơn là kéo dài cuộc sống.

Đau do ung thư có thể được kiểm soát thỏa đáng bằng các loại thuốc thích hợp, bao gồm cả thuốc giảm đau opioid. Các triệu chứng khác (ví dụ, táo bón, khó thở, buồn nôn) cũng cần được điều trị.

Nên cung cấp tư vấn tâm lý và tinh thần.

Bệnh nhân bị ung thư vú di căn nên được khuyến khích chuẩn bị các chỉ thị trước, chỉ ra loại hình chăm sóc mà họ mong muốn trong trường hợp họ không thể đưa ra quyết định như vậy nữa.

Tài liệu tham khảo về tiên lượng

  1. 1. American Cancer Society: Cancer Facts & Figures or African American/Black People 2022-2024. Truy cập vào ngày 4 tháng 5 năm 2023.

  2. 2. American Cancer Society: Key Statistics for Breast Cancer. Truy cập vào ngày 4 tháng 5 năm 2023.

Những điểm chính

  • Ung thư vú là nguyên nhân thứ hai gây tử vong do ung thư ở phụ nữ; nguy cơ tích lũy phát triển ung thư vú ở tuổi 95 là 12%.

  • Các yếu tố làm tăng nguy cơ bao gồm ung thư vú ở họ hàng gần gũi (đặc biệt nếu BRCA đột biến gen có mặt), quá sản ống tuyến hoặc thuỳ, ung thư biểu mô thuỳ tại chỗ và tiếp xúc đáng kể với xạ trị ngực trước 30 tuổi.

  • Các yếu tố cho thấy tiên lượng kém hơn bao gồm tuổi trẻ, thiếu thụ thể estrogenprogesterone, và sự hiện diện của protein HER2 hoăc đột biến gien BRCA.

  • Đối với hầu hết phụ nữ, điều trị yêu cầu phẫu thuật cắt bỏ, lấy mẫu hạch bạch huyết, điều trị toàn thân (liệu pháp nội tiết hoặc hóa trị liệu) và xạ trị.

  • Điều trị bằng liệu pháp nội tiết (ví dụ: tamoxifen, thuốc ức chế aromatase) nếu khối u có thụ thể hormone.

  • Cân nhắc điều trị bệnh di căn để làm giảm các triệu chứng (ví dụ: bằng hóa trị, liệu pháp nội tiết hoặc, đối với di căn xương, xạ trị hoặc bisphosphonat), mặc dù thời gian sống sót khó có thể kéo dài.

Thông tin thêm

Sau đây là các tài nguyên tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của các tài nguyên này.

  1. Hướng dẫn thực hành lâm sàng của NCCN: Breast Cancer: The National Comprehensive Cancer Network provides guidelines for the diagnosis, staging, and treatment of breast cancer (and other cancers).

  2. U. S. Preventive Services Task Force: Breast Cancer: Medication Use to Reduce Risk: Trang web này cung cấp lý do căn bản của việc sử dụng thuốc để giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ có nguy cơ cao và mô tả những nguy cơ khi sử dụng những loại thuốc này.

  3. National Cancer Institute: Breast Cancer: Trang web này thảo luận về sự di truyền của ung thư vú và ung thư phụ khoa cũng như tầm soát và phòng ngừa và điều trị ung thư vú. Cũng bao gồm thông tin dựa trên bằng chứng về chăm sóc hỗ trợ và giảm nhẹ.