Phục hồi chức năng cho các bệnh lý khác

TheoSalvador E. Portugal, DO, New York University, Robert I. Grossman School of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 11 2023

    Phục hồi chức năng nhằm tạo điều kiện phục hồi sau khi có tình trạng mất chức năng. (Xem thêm Tổng quan về Phục hồi chức năng.)

    Viêm khớp

    Bệnh nhân viêm khớp có thể được hưởng lợi từ các hoạt động và các bài tập giúp tăng cường sức cơ và tầm vận động, đi đôi với các chiến lược để bảo vệ khớp. Ví dụ: bệnh nhân có thể được tư vấn

    • Trượt nồi nước sôi có mì ống thay vì mang từ bếp vào bồn rửa (để tránh bị đau và căng cơ quá mức)

    • Vào và ra khỏi bồn tắm an toàn bằng cách làm theo các bước cụ thể

    • Đặt một bệ toilet nâng cao, một băng ghế bồn tắm hoặc cả hai (để giảm đau và căng thẳng ở các khớp chi dưới)

    • Quấn xốp, vải hoặc băng dính quanh tay cầm của các đồ vật (ví dụ: dao, nồi, chảo) để đệm tay cầm

    • Sử dụng nẹp để bảo vệ các khớp bị viêm, không ổn định hoặc đau đớn

    • Sử dụng các công cụ có tay cầm lớn hơn, được thiết kế tiện dụng

    Có thể tiến hành hướng dẫn bệnh nhân tại các cơ sở ngoại trú, tại nhà, hoặc tại các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân.

    Khiếm thị

    Bệnh nhân mù được dạy cách dựa nhiều hơn vào các giác quan khác, phát triển các kỹ năng cụ thể và sử dụng các thiết bị cụ thể (ví dụ: chữ nổi Braille, gậy tập đi, máy đọc). Điều trị nhằm giúp bệnh nhân hoạt động chức năng ở mức tối đa và độc lập, phục hồi sự tự tin về mặt tâm lý, đồng thời giúp bệnh nhân hòa nhập tốt hơn với môi trường xung quanh. Có nhiều liệu trình điều trị, việc lựa chọn dựa vào quá trình tổn thương thị giác (xảy ra đột ngột hay từ từ tăng dần), mức độ tổn thương, nhu cầu của bệnh nhân và các bệnh lý kèm theo. Ví dụ, bệnh nhân có bệnh lý thần kinh ngoại biên gây giảm cảm giác xúc giác ở ngón tay sẽ có thể gặp khó khi đọc chữ nổi. Nhiều người mù cần được tư vấn tâm lý (thường là liệu pháp nhận thức-hành vi) để giúp họ đối phó với tình trạng của họ tốt hơn.

    Đối với việc đi lại, trị liệu có thể bao gồm việc học cách sử dụng gậy; Những chiếc gậy được người mù sử dụng thường có màu trắng, dài và mỏng hơn những chiếc gậy thông thường. Bệnh nhân sử dụng xe lăn được dạy cách dùng một tay để chi chuyển xe lăn và tay kia dùng cây gậy. Những bệnh nhân chọn sử dụng chó thay vì gậy sẽ được hướng dẫn cách sử dụng và chăm sóc chúng. Khi đi cùng người sáng mắt, người mù có thể bám vào khuỷu tay cong của người đó thay vì sử dụng dụng cụ hỗ trợ đi lại. Không nên dắt tay người mù vì hành động này có thể bị coi là chiếm ưu thế và kiểm soát.

    Tổn thương não

    Thuật ngữ "chấn thương đầu" thường được sử dụng thay thế cho chấn thương sọ não (TBI). Các tổn thương khá đa dạng, phổ biến nhất là liệt, co cứng, thất điều, thất ngôn, rối loạn nhận thức (suy giảm trí nhớ, giảm kỹ năng giải quyết vấn đề, rối loạn vận ngôn và rối loạn thị giác).

    Để phục hồi chức năng đạt mức độ tối đa, sự can thiệp sớm từ các chuyên gia phục hồi chức năng là không thể thiếu. Việc can thiệp này bao gồm phòng ngừa các khuyết tật thứ phát (ví dụ: chấn thương do tì đè, co rút khớp), phòng ngừa viêm phổi và giáo dục gia đình. Các chuyên gia phục hồi chức năng cần đánh giá bệnh nhân nhằm xác định tổn thương càng sớm càng tốt. Trước khi bắt đầu phục hồi chức năng, bệnh nhân cần được đánh giá lại; kết quả này sẽ được so sánh với những kết quả đánh giá ban đầu nhằm xác định các ưu tiên điều trị. Bệnh nhân rối loạn chức năng nhận thức mức độ nặng cần được điều trị bằng các liệu trình chuyên sâu, thường bắt đầu ngay sau khi xảy ra tổn thương và tiếp diễn trong thời gian nhiều tháng hoặc nhiều năm tới.

    Đau mạn tính

    Đau mạn tính do các tình trạng như đau thắt lưng là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây ra tình trạng khuyết tật mạn tính. Bác sĩ vật lý trị liệu hoặc chuyên gia kiểm soát đau thường kiểm soát việc chăm sóc bệnh nhân bị đau mạn tính, đây là một tình trạng phức tạp được hưởng lợi từ việc sử dụng mô hình sinh thiết tâm lý xã hội để hướng dẫn điều trị. Vì vậy, một chương trình phục hồi chức năng có thể bao gồm phối hợp những bài tập sau đây:

    • Các bài tập được giám sát để điều hòa thân mình và tư thế

    • Các bài tập tổng quát (trong lớp thể dục cá nhân hoặc nhóm)

    • Liệu pháp thao tác hoặc thao tác chỉnh hình

    • Liệu pháp xoa bóp

    • Phương thức vật lý

    • Châm cứu

    • Giáo dục khoa học thần kinh về đau

    • Các liệu pháp nhận thức (ví dụ: liệu pháp hành vi nhận thức, liệu pháp tái xử lý đau)

    • Thiền chánh niệm

    • Biện pháp dùng thuốc

    • Thủ thuật tiêm

    • Chuyển tuyến phẫu thuật khi thích hợp

    Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD)

    Bệnh nhân bị COPD có thể được hưởng lợi từ các bài tập để tăng sức bền và từ các chiến lược đơn giản hóa hoạt động và do đó tiết kiệm năng lượng. Khuyến khích bệnh nhân sử dụng các bài tập đòi hỏi sự vận động tứ chi, giúp tăng khả năng chuyển hóa yếm khí tại cơ và làm giảm nhu cần sử dụng oxy, từ đó giúp bệnh nhân dễ thở hơn. Việc giám sát bệnh nhân khi họ tham gia các bài tập trên sẽ giúp tạo động lực và làm họ cảm thấy yên tâm hơn. Có thể hướng dẫn cho bệnh nhân tại các cơ sở y tế, hoặc tại nhà.

    Bệnh đa dây thần kinh khi mắc bệnh nặng

    Bệnh đa dây thần kinh nghiêm trọng có thể biểu hiện dưới dạng không thể ngừng thở máy. Trong suy đa cơ quan thứ phát sau nhiễm trùng huyết, hội chứng đáp ứng viêm toàn thân, có lẽ là do cytokine và giải phóng gốc tự do, làm suy yếu vi tuần hoàn thần kinh ngoại biên, dẫn đến bệnh đa dây thần kinh của các dây thần kinh hỗn hợp hoặc vận động. Thoái hóa sợi trục không viêm và dẫn đến teo cơ do thần kinh có thể gây yếu cơ hoành, các chi, cơ mặt và cơ cạnh cột sống. Các sợi cảm giác bị ảnh hưởng ít nhất. Nồng độ creatinin kinase huyết thanh tuần tự và các nghiên cứu điện chẩn tuần tự rất hữu ích trong việc theo dõi diễn biến bệnh ở một số bệnh nhân. Thời gian hồi phục từ 3 tuần đến 6 tháng.

    Phục hồi chức năng tập trung vào việc ngăn ngừa loét do tì đè, co cứng và các bệnh lý thần kinh do chèn ép và trở lại chức năng bình thường. Các bài tập tăng cường sức mạnh, khả năng vận động và bồi dưỡng ADL (các hoạt động sinh hoạt hàng ngày), cũng như các thiết bị chỉnh hình và thích ứng thích hợp, cần được cung cấp ở các giai đoạn phục hồi thích hợp.

    bàn chân rủ

    Chẩn đoán phân biệt bàn chân rủ bao gồm bệnh lý thần kinh mác (mác) thông thường, bệnh đa dây thần kinh ngoại biên lan tỏa (ví dụ: do bệnh tiểu đường), bệnh rễ thần kinh L4 và/hoặc L5, khối u, đột quỵ, bệnh đa xơ cứng, chấn thương tủy sống và các nguyên nhân khác. Bệnh nhân có thể có biểu hiện yếu các cơ gập cổ chân, cơ quay ngoài cổ chân và/hoặc các cơ duỗi ngón chân, cũng như có thể bị vỗ bàn chân và dáng đi khập khiễng (bù lại hông và đầu gối gập quá mức).

    Điều trị bàn chân rủ bao gồm điều trị nguyên nhân của bệnh nền khi có thể; đào tạo cách sử dụng dụng cụ chỉnh hình mắt cá chân (AFO); tăng cường sức bền của cơ gấp mặt mu cổ chân yếu, cơ xoay ngoài cổ chân và/hoặc cơ duỗi ngón chân; kéo giãn cơ gấp bàn chân cổ chân; và rèn luyện dáng đi. Kích thích điện chức năng (FES) hiện đang được sử dụng ở những bệnh nhân mắc bệnh đa xơ cứng để tạo ra tình trạng kích thích sợi dây thần kinh trong giai đoạn xoay dáng đi nhằm giúp giải phóng bàn chân.

    Tổn thương tủy sống

    Liệu pháp phục hồi chức năng cụ thể khác nhau tùy thuộc vào các bất thường của bệnh nhân, phụ thuộc vào mức độ và phạm vi độ (một phần hoặc toàn bộ) của chấn thương tủy sống (xem Chấn thương cột sống, đặc biệt là xem bảng Ảnh hưởng của chấn thương tủy sống theo vị trí). Khả năng hoạt động của bệnh nhân phụ thuộc vào mức độ tổn thương (xem Tổng quan về rối loạn tủy sống: Triệu chứng và dấu hiệu) và sự phát triển của các biến chứng (ví dụ: co rút khớp, loét do tỳ đè, viêm phổi và đại tiện không tự chủ/bàng quang).

    Vùng tủy tổn thương phải được cố định bằng các phương pháp phẫu thuật hoặc không phải phẫu thuật càng sớm càng tốt, và giữ cố định trong suốt giai đoạn cấp. Trong giai đoạn cấp tính, việc chăm sóc định kỳ hàng ngày nên bao gồm các biện pháp ngăn ngừa co rút, loét do tỳ đèviêm phổi; tất cả các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa các biến chứng khác (ví dụ: hạ huyết áp thế đứng, xẹp phổi, huyết khối tĩnh mạch sâu, thuyên tắc mạch phổi) cũng nên được thực hiện. Đặt bệnh nhân nằm trên bàn nghiêng và tăng góc dần về vị trí thẳng đứng có thể giúp khôi phục lại thăng bằng huyết động. Tất áp lực, băng co giãn, hoặc áo bó bụng có thể giúp phòng ngừa hạ huyết áp tư thế.