Áp xe quanh amidan và viêm mô tế bào

TheoAlan G. Cheng, MD, Stanford University
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 03 2022

Áp xe quanh amidan và viêm mô tế bào là các bệnh nhiễm trùng họng cấp tính thường gặp nhất ở thanh thiếu niên và thanh niên. Các triệu chứng là đau họng dữ dội, cứng hàm, giọng "khoai tây nóng" và lệch lưỡi gà. Chẩn đoán cần phải có chọc hút bằng kim. Điều trị bao gồm bằng kháng sinh phổ rộng, dẫn lưu mủ, bù nước, dùng thuốc giảm đau và đôi khi là cắt amidan gấp.

Căn nguyên

Áp xe (viêm mủ amidan) và viêm mô tế bào có thể đại diện cho một phổ của cùng một quá trình, trong đó nhiễm trùng do vi khuẩn ở amidan và ở họng lây lan đến các mô mềm. Nhiễm trùng hầu như luôn ở một bên và nằm giữa amidan và cơ thắt hầu họng trên. Bệnh thường liên quan đến nhiều vi khuẩn. StreptococcusStaphylococcus là mầm bệnh hiếu khí thường gặp nhất, trong khi các loài Bacteroides là mầm bệnh kỵ khí chủ yếu.

Triệu chứng và Dấu hiệu

Các triệu chứng bao gồm bắt đầu dần dần đau họng một bên dữ dội, khó nuốt, sốt, đau tai và sưng hạch cổ không đối xứng. Cứng hàm, giọng "khoai tây nóng" (nói như thể có vật nóng trong miệng), biểu hiện nhiễm độc (ví dụ: giao tiếp bằng mắt kém hoặc không giao tiếp bằng mắt, dễ kích thích, không thể an ủi được hoặc mất tập trung, sốt, lo lắng), chảy nước dãi, hôi miệng nghiêm trọng, ban đỏ amidan, và xuất tiết là phổ biến. Áp xe và viêm mô tế bào đều có sưng phía trên amidan bị thương tổn, nhưng với áp xe có nhiều chỗ sưng phồng rải rác hơn, có lệch của vòm miệng mềm và lưỡi gà và cứng hàm rõ.

Chẩn đoán

  • Chọc hút bằng kim

  • Đôi khi cần chụp CT

Viêm mô tế bào quanh amidan được ghi nhận ở những bệnh nhân bị đau họng dữ dội, có cứng hàm, giọng "khoai tây nóng" và lệch lưỡi gà. Tất cả những bệnh nhân như vậy đều cần phải có chọc hút khối ở amidan bằng kim và nuôi cấy. Chọc hút mủ phân biệt áp xe với viêm mô tế bào. Siêu âm tại giường có thể được sử dụng để chẩn đoán và xác định vị trí tối ưu để chọc hút hoặc rạch và dẫn lưu.

CT cổ có thể giúp xác định chẩn đoán khi khám lâm sàng khó khăn hoặc nghi ngờ chẩn đoán, đặc biệt là khi tình trạng này phải được phân biệt với nhiễm trùng cạnh họng hoặc nhiễm trùng sâu khác ở cổ.

Điều trị

  • Thuốc kháng sinh

  • Dẫn lưu áp xe

Viêm mô tế bào thuyên giảm, thường trong vòng 48 giờ, khi bù nước và dùng penicillin liều cao (ví dụ, 2 triệu đơn vị đường tĩnh mạch, 4 giờ một lần hoặc 1 g uống 4 lần/ngày); thuốc thay thế bao gồm cephalosporin thế hệ 1 hoặc clindamycin. Thuốc kháng sinh theo dẫn hướng của nuôi cấy sau đó được kê đơn trong 10 ngày.

Rạch và dẫn lưu áp-xe ở khoa cấp cứu bằng cách sử dụng gây tê tại chỗ triệt để và đôi khi dùng thuốc an thần; nhiều bác sĩ lâm sàng tin rằng chỉ chọc hút bằng kim cũng đủ để dẫn lưu. Dẫn hướng bằng siêu âm đôi khi được sử dụng khi chẩn đoán áp xe không rõ ràng hoặc khi áp xe nhỏ (< 1 cm). Mặc dù hầu hết bệnh nhân có thể được điều trị ngoại trú, nhưng một số bệnh nhân cần nhập viện trong thời gian ngắn để dùng kháng sinh đường tiêm, truyền dịch qua đường tĩnh mạch và theo dõi đường thở. Hiếm khi, thực hiện việc cắt amidan ngay lập tức, đặc biệt ở bệnh nhân trẻ tuổi hoặc không hợp tác có chỉ định khác trong việc cắt amidan theo lịch mổ phiên (ví dụ: tiền sử viêm amidan thường xuyên tái phát hoặc ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn). Ngược lại, nếu bệnh nhân cũng đã từng bị viêm amidan tái phát, việc cắt amidan theo lịch mổ phiên được thực hiện sau đó 4 đến 6 tuần để ngăn ngừa áp xe tái phát.