Bệnh Wilson

(Bệnh Wilson, độc tính Đồng di truyền)

TheoLarry E. Johnson, MD, PhD, University of Arkansas for Medical Sciences
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 07 2023

Bệnh Wilson dẫn đến tình trạng tích tụ đồng trong gan và các cơ quan khác. Phát triển các triệu chứng gan hoặc thần kinh. Chẩn đoán dựa trên nồng độ ceruloplasmin trong huyết thanh thấp, lượng đồng bài tiết qua nước tiểu cao và đôi khi là kết quả sinh thiết gan. Điều trị bao gồm chế độ ăn ít đồng và các loại thuốc như là penicillamine hoặc trientine.

(Xem thêm Tổng quan về thiếu hụt khoáng chất và độc tính.)

Bệnh Wilson là một bệnh rối loạn chuyển hóa đồng ảnh hưởng đến nam giới và nữ giới; khoảng 1 người trong 30.000 người mắc chứng rối loạn này. Những người bị ảnh hưởng là đồng hợp tử đối với gen lặn đột biến, nằm trong nhiễm sắc thể số 13. Những người mang dị hợp tử, chiếm khoảng 1,1% dân số, không có triệu chứng.

Sinh lý bệnh của bệnh Wilson

Khiếm khuyết di truyền trong bệnh Wilson làm suy yếu khả năng vận chuyển đồng. Vận chuyển đồng bị suy giảm làm giảm sự bài tiết đồng vào mật, do đó gây ra tình trạng quá tải đồng và dẫn đến sự tích tụ đồng trong gan, bắt đầu từ khi sinh. Vận chuyển bị suy giảm cũng cản trở việc kết hợp đồng vào protein đồng ceruloplasmin, do đó làm giảm nồng độ ceruloplasmin trong huyết thanh.

Phát triển chứng xơ hóa gan, nguyên nhân cuối cùng bệnh xơ gan. Đồng khuếch tán từ gan vào máu, sau đó vào các mô khác. Nó phá huỷ nhiều nhất là não nhưng cũng phá hủy thận và các cơ quan sinh sản và gây thiếu máu tan máu. Một số đồng lắng đọng xung quanh viền giác mạc và rìa mống mắt, tạo ra các vòng Kayser-Fleischer. Các vòng xuất hiện để bao quanh các tròng đen.

Triệu chứng và Dấu hiệu của bệnh Wilson

Các triệu chứng của bệnh Wilson thường phát triển từ 5 tuổi đến 35 tuổi nhưng có thể phát triển từ 2 tuổi đến 72 tuổi.

Ở gần một nửa số bệnh nhân, nhất là thanh thiếu niên, triệu chứng đầu tiên là

  • Viêm gan-cấp tính, mạn tính thể hoạt động, hoặc tối cấp

Nhưng, viêm gan có thể phát triển ở bất cứ thời điểm nào.

Trong khoảng 40% các bệnh nhân, đặc biệt bệnh nhân trẻ tuổi vị thành niên, các triệu chứng đầu tiên phản ánh

  • Biểu hiện hệ thần kinh trung ương (CNS)

Các khiểm khuyết vận động là phổ biến, bao gồm các sự kết hợp của rùng mình, rối loạn trương lực, rối loạn cận ngôn, chứng nuốt khó, chứng múa giật, chảy nước dãi, và sự không phối hợp vận động. Đôi khi các triệu chứng của CNS là những bất thường nhận thức hoặc thần kinh.

Ở 5 đến 10% số bệnh nhân, triệu chứng đầu tiên là tình cờ nhận thấy các vòng Kayser-Fleischer màu vàng hoặc vàng lục hoặc hình lưỡi liềm (do lắng đọng đồng trong giác mạc), vô kinh hoặc sẩy thai nhiều lần hoặc tiểu máu.

Chẩn đoán bệnh Wilson

  • Kiểm tra bằng đèn chiếu để tìm vòng Kayser-Fleischer

  • Ceruloplasmin trong huyết thanh, đôi khi đồng trong huyết thanh và bài tiết đồng qua nước tiểu 24 giờ

  • Đôi khi được xác nhận bằng xét nghiệm đáp ứng penicillamine hoặc sinh thiết gan

Bệnh Wilson cần phải được nghi ngờ ở những người < 40 có bất kỳ dấu hiệu sau đây:

  • Rối loạn không xác định về gan, thần kinh, hoặc rối loạn tâm thần

  • Tăng nồng độ transaminase ở gan không rõ nguyên nhân

  • Có anh chị em ruột, cha mẹ, hoặc họ hàng mắc bệnh Wilson

  • Viêm gan tối cấp

Nếu nghi ngờ bệnh Wilson, cần phải kiểm tra vòng Kayser-Fleischer bằng đèn khe, đo nồng độ ceruloplasmin trong huyết thanh và bài tiết đồng trong nước tiểu 24 giờ. Nồng độ đồng trong huyết thanh có thể được đo nhưng đo nồng độ ceruloplasmin thường là đủ. Mức transaminase thường được đo lường; các mức cao khẳng định chẩn đoán.

Vòng Kayser-Fleischer

Những vòng này cùng với những bất thường thần kinh vận động điển hình hoặc giảm ceruloplasmin gần như là đặc trưng của bệnh Wilson. Hiếm khi, những vòng này xảy ra trong các rối loạn gan khác (ví dụ như chứng ứ mật, xơ gan mật nguyên phát), tuy nhiên nồng độ ceruloplasmin không bị ảnh hưởng.

Ceruloplasmin

Ceruloplasmin huyết thanh (bình thường từ 20 đến 35 mg/dL [200 đến 350 mg/L]) thường thấp trong bệnh Wilson nhưng có thể bình thường. Nó cũng có thể thấp có mang dị hợp tử và những người có các chứng rối loạn gan khác (ví dụ viêm gan do virut, bệnh gan do thuốc hoặc rượu gây ra). Mức ceruloplasmin thấp ở bệnh nhân có 1 vòng Kayser-Fleischer có ý nghĩa chẩn đoán. Ngoài ra, nồng độ < 5 mg/dL (< 50 mg/L) gợi ý cao bất kể những dấu hiệu lâm sàng.

Đồng huyết thanh

Nồng độ đồng trong huyết thanh đôi khi được đo; tuy nhiên, nồng độ này có thể cao, bình thường hoặc thấp.

Bài tiết đồng qua nước tiểu

Trong bệnh Wilson, lượng đồng bài tiết qua nước tiểu trong 24 tiếng (bình thường 30 mcg/ngày) thường > 100 mcg/ngày. Nếu ceruloplasmin trong huyết thanh thấp và bài tiết đồng qua nước tiểu cao thì chẩn đoán đã rõ ràng. Nếu nồng độ không rõ ràng, việc đo mức độ bài tiết đồng qua nước tiểu sau khi dùng penicillamine (xét nghiệm kích thích penicillamine) có thể xác nhận chẩn đoán; xét nghiệm này thường không được thực hiện ở người lớn vì giá trị ngưỡng không được thiết lập rõ ràng.

Sinh thiết gan

Trong những trường hợp không rõ ràng (ví dụ: tăng transaminase, không có vòng Kayser-Fleischer, giá trị không xác định của ceruloplasmin và đồng trong nước tiểu), chẩn đoán được thực hiện bằng cách làm sinh thiết gan để đo nồng độ đồng trong gan. Tuy nhiên, kết quả âm tính giả có thể xảy ra do lỗi lấy mẫu (do sự thay đổi lớn về nồng độ đồng trong gan) hoặc viêm gan kịch phát (gây hoại tử giải phóng một lượng lớn đồng).

Sàng lọc bệnh Wilson

Bởi vì điều trị sớm là hiệu quả nhất nên sàng lọc được chỉ định cho những người có anh chị em ruột, anh họ hoặc cha mẹ mắc bệnh Wilson. Sàng lọc bao gồm khám bằng đèn khe và đo nồng độ transaminase, nồng độ đồng và nồng độ ceruloplasmin trong huyết thanh cũng như mức độ bài tiết đồng trong nước tiểu 24 giờ. Nếu có kết quả bất thường, sinh thiết gan sẽ được thực hiện để đo nồng độ đồng trong gan.

Trẻ sơ sinh không nên thực hiện xét nghiệm cho đến khi trẻ được trên 1 tuổi vì nồng độ ceruloplasmin thấp trong vài tháng đầu đời. Trẻ em < 6 tuổi với kết quả xét nghiệm bình thường nên được xét nghiệm lại từ 5 đến 10 năm sau.

Xét nghiệm gen được thực hiện.

Điều trị bệnh Wilson

  • Dùng thuốc Penicillamine hoặc Triadine

  • Chế độ ăn ít đồng

  • Để duy trì, dùng penicillamine liều thấp kéo dài hoặc trientine, hoặc kẽm đường uống

Điều trị bệnh Wilson kéo dài, liên tục là bắt buộc bất kể có triệu chứng lâm sàng hay không. Chế độ ăn ít đồng (ví dụ: tránh gan bò, hạt điều, đậu mắt đen, nước ép rau, động vật có vỏ, nấm và ca cao) và sử dụng penicillamine, trientine và đôi khi là kẽm uống có thể ngăn ngừa tích tụ đồng. Cần kiểm tra hàm lượng đồng trong nước uống và khuyên mọi người không nên bổ sung bất kỳ loại vitamin hoặc khoáng chất nào có chứa đồng.

Penicillamine là thuốc chelating được sử dụng phổ bến nhất nhưng cần cân nhắc độc tính (như sốt, phát ban, giảm bạch cầu trung tính, giảm tiểu cầu, protein niệu). Khả năng phản ứng chéo có thể phát sinh ở những người bị dị ứng penicillin. Pyridoxine 25 mg đường uống một lần/ngày được dùng với penicillamine. Đôi khi, sử dụng penicillamine có thể làm cho các triệu chứng thần kinh trầm trọng hơn.

Người lớn được tiêm 750 đến 1500 mg penicillamine chia làm 4 lần. Nên dùng liều có mức bài tiết đồng qua nước tiểu trong 24 giờ > 2 mg/ngày trong 3 tháng. Sau đó, có thể điều chỉnh liều dựa trên sự bài tiết đồng qua nước tiểu và nồng độ đồng tự do trong huyết thanh. Liều duy trì thích hợp cần phải dẫn đến nồng độ đồng tự do trong huyết thanh < 10 mcg/dL. Penicillamine cần phải được dùng 1 giờ trước hoặc 2 giờ sau bữa ăn vì thức ăn ức chế sự hấp thu của thuốc này.

Đối với trẻ em, liều duy trì thông thường là 20 mg/kg/ngày làm tròn đến 250 mg gần nhất và chia làm hai hoặc ba lần; liều tối đa là 1000 mg/ngày. Điều chỉnh liều dựa trên mức bài tiết đồng qua nước tiểu 24 giờ và nồng độ đồng tự do trong huyết thanh tương tự như những gì đã khuyến nghị cho người lớn.

Trientine hydrochloride, cũng là một loại thuốc chelating, là một cách điều trị thay thế cho thuốc penicillamine. Liều cho công thức bào chế dạng viên nang là 375 đến 750 mg uống hai lần mỗi ngày hoặc 250 đến 500 mg uống 3 lần mỗi ngày (750 đến 1500 mg/ngày).

Kẽm axetat 50 mg uống 3 lần/ngày có thể làm giảm sự hấp thu đồng trong ruột non, do đó ngăn ngừa tái tích tụ đồng ở những bệnh nhân không đáp ứng thuốc penicillamine hoặc thuốc trientine hoặc những người có các triệu chứng thần kinh không đáp ứng với các thuốc khác. (Cảnh báo: Thuốc penicillamine hoặc thuốc trientine không được dùng cùng thời điểm với kẽm bởi vì một trong hai loại thuốc có thể liên kết kẽm, tạo thành một hợp chất mà không có tác dụng điều trị.)

Sự tuân thủ kém liệu pháp dùng thuốc khi điều trị trong thời gian dài là phổ biến. Sau khi điều trị được 1 đến 5 năm, có thể cân nhắc điều trị duy trì liều thấp. Nên theo dõi định kỳ với các chuyên gia về bệnh gan.

Ghép gan có thể giúp ích cho những bệnh nhân mắc bệnh Wilson và bệnh suy gan tối cấp hoặc suy gan mạn tính nặng không đáp ứng với thuốc.

Tiên lượng cho bệnh Wilson

Tiên lượng cho các bệnh nhân bị bệnh Wilson thường là tốt, trừ khi bệnh tiến triển trước khi bắt đầu điều trị.

Bệnh Wilson không được điều trị gây tử vong, thường là trước 30 tuổi.

Những điểm chính

  • Bệnh Wilson là một bệnh rối loạn gen lặn trên nhiễm sắc thể thường hiếm gặp, trong đó đồng tích tụ trong nhiều cơ quan khác nhau.

  • Bệnh này biểu hiện trong thời thơ ấu hoặc trưởng thành, thường giữa độ tuổi từ 5 đến 35.

  • Nghi ngờ bệnh ở những người có tiền sử gia đình mắc bệnh hoặc có các triệu chứng gan, thần kinh, hoặc tâm thần không rõ nguyên nhân (bao gồm cả nồng độ transaminase tăng).

  • Xác nhận chẩn đoán chủ yếu bằng khám đèn khe (để tìm vòng Kayser-Fleischer) và đo ceruloplasmin huyết thanh (thấp) và mức bài tiết đồng qua nước tiểu 24 giờ (cao).

  • Khuyên bệnh nhân tuân theo chế độ ăn ít đồng và điều trị cho họ bằng penicillamine, trientine, hoặc nếu những loại thuốc này không dung nạp được hoặc không hiệu quả thì dùng kẽm đường uống.