Tuổi thai

TheoArcangela Lattari Balest, MD, University of Pittsburgh, School of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 11 2023

Tuổi thai và các tham số tăng trưởng giúp xác định nguy cơ bệnh lý sơ sinh. Tuổi thai là yếu tố quyết định chính của sự trưởng thành của cơ quan.

Tuổi thai lúc mới sinh thường được xác định bằng cách đếm số tuần tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh nguyệt bình thường cuối cùng của người mẹ đến ngày sinh. Tuy nhiên, việc xác định tuổi thai dựa vào kỳ kinh cuối cùng có thể không chính xác nếu bệnh nhân mang thai có kinh nguyệt không đều. Chính xác hơn, tuổi thai là sự khác biệt giữa 14 ngày trước ngày thụ thai và ngày sinh. Việc sử dụng kỳ kinh cuối cùng để xác định tuổi thai không xác định được tuổi phôi thai thực sự của thai nhi, nhưng nó là tiêu chuẩn chung của các bác sĩ sản khoa và bác sĩ chuyên khoa sơ sinh để thảo luận về sự trưởng thành của thai nhi.

Tuổi phôi là thời gian từ ngày thụ thai đến ngày sinh và ít hơn 2 tuần so với tuổi thai. Phụ nữ có thể ước tính chính xác ngày thụ thai bằng cách tính ngày rụng trứng bằng phép thử tại nhà và/hoặc đo nhiệt độ nền của cơ thể. Tuy nhiên, ngày thụ thai chỉ được biết chắc chắn khi sử dụng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm hoặc các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản khác.

Tuổi thai có thể ước tính có thể dựa trên

  • Ngày đầu tiên của kỳ kinh nguyệt cuối cùng và chu kỳ kinh nguyệt

  • Ngày rụng trứng hoặc ngày thụ thai

  • Siêu âm thai

  • Các đặc điểm sinh lý sau sinh (ví dụ, sử dụng điểm Ballard)

Ngày sinh dự kiến (EDD) là ngày sinh được dự kiến (dự sinh). EDD có thể được tính như sau

  • Ngày thụ thai + 266 ngày

  • Kỳ kinh cuối (LMP) + 280 ngày (40 tuần) đối với phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn kéo dài 28 ngày/chu kỳ

  • LMP + 280 ngày + (độ dài chu kỳ – 28 ngày) dành cho phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn kéo dài hơn 28 ngày

Khi kinh nguyệt đều, tiền sử kinh nguyệt là một phương pháp tương đối đáng tin cậy để xác định ngày dự sinh.

Khi thiếu thông tin khác, các chỉ số đo siêu âm của thai nhi trong ba tháng đầu của thai kỳ sẽ đưa ra ước tính chính xác nhất về tuổi thai. Khi không xác định được ngày thụ thai và chu kỳ kinh nguyệt không đều hoặc không có thông tin về chu kỳ kinh nguyệt này, siêu âm có thể là nguồn thông tin duy nhất để tính ngày dự sinh.

Tuổi thai dựa trên kỳ kinh nguyệt cuối cùng và dựa trên siêu âm thai nhi đầu tiên trong thai kỳ hiện tại được so sánh. Nếu những ước tính về độ tuổi này không nhất quán thì ngày dự sinh (và do đó, tuổi thai ước tính) có thể bị thay đổi, tùy thuộc vào số tuần và mức độ không nhất quán. Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) (xem Phương pháp ước tính ngày dự sinh) khuyến nghị sử dụng ngày dựa trên các chỉ số đo trên siêu âm nếu nó khác với ngày kinh nguyệt

  • Khi được ≥ 8 6/7 tuần tuổi thai: > 5 ngày

  • Khi được 9 tuần đến 15 6/7 tuần tuổi thai: > 7 ngày

  • Khi được 16 tuần đến 21 6/7 tuần tuổi thai: > 10 ngày

  • Khi được 22 tuần đến 27 6/7 tuần tuổi thai: > 14 ngày

  • Khi được ≥ 28 tuần tuổi thai: > 21 ngày

Việc đối chiếu ngày kinh và ngày siêu âm chỉ được thực hiện sau lần siêu âm đầu tiên trong thai kỳ hiện tại – ngày dự sinh không thay đổi dựa trên những lần siêu âm tiếp theo. Bởi vì ước tính siêu âm kém chính xác hơn ở giai đoạn sau của thai kỳ, nên hiếm khi sử dụng kết quả siêu âm ở ba tháng thứ hai và ba tháng thứ ba của thai kỳ để thay đổi tuổi thai ước tính và nếu cân nhắc thay đổi ngày dự sinh thì nên tham khảo ý kiến của chuyên gia siêu âm thai nhi.

Các dấu hiệu khi khám thực thể trẻ sơ sinh cũng được các bác sĩ lâm sàng sử dụng để ước tính tuổi thai bằng cách sử dụng điểm Ballard mới. Điểm Ballard chỉ chính xác trong vòng cộng hoặc trừ 2 tuần. Đánh giá lâm sàng sơ sinh về tuổi thai được phát hiện là đánh giá quá cao tuổi thai ở trẻ sinh non và đánh giá thấp tuổi thai ở trẻ nhỏ so với tuổi thai (1). Do đó, việc khám thực thể đánh giá tuổi thai nên được sử dụng để xác định tuổi thai và chỉ cho các quyết định về chăm sóc khi không có thông tin sản khoa đáng tin cậy về ngày dự sinh hoặc có sự khác biệt lớn giữa tuổi thai được xác định sản khoa và các dấu hiệu khi khám thực thể.

Điểm Ballard dựa trên sự trưởng thành của thể chất và hệ cơ thần kinh và có thể sử dụng đến 4 ngày sau khi sinh (trên thực tế, điểm Ballard thường được sử dụng trong 24 giờ đầu). Sự phát triển của thần kinh cơ hằng định hơn theo thời gian so với các đặc điểm sinh lý có thể trưởng thành nhanh chóng sau khi sinh. Tuy nhiên, các phần thần kinh cơ có thể bị ảnh hưởng bởi bệnh tật và thuốc men (ví dụ: magiê sulfat được cho dùng trong quá trình chuyển dạ).

Đánh giá tuổi thai – Điểm Ballard mới

Điểm được đánh giá cho thần kinh cơ và đặc điểm thể chất. (Phỏng theo Ballard JL, Khoury JC, Wedig K, et al: New Ballard score, expanded to include extremely premature infants. Pediatrics 119(3):417–423, 1991. doi: 10.1016/s0022-3476(05)82056-6; sử dụng với sự cho phép của CV Mosby Company.)

Dựa vào tuổi thai, mỗi trẻ sơ sinh được phân loại là (2)

  • Sinh non: < 37 tuần tuổi thai

  • Non tháng muộn: 34 đến 36 6/7 tuần

  • Gần đủ tháng: 37 0/7 tuần qua 38 6/7 tuần

  • Đủ tháng: 39 0/7 tuần qua 40 6/7 tuần

  • Đủ tháng muộn: 41 0/7 tuần qua 41 6/7 tuần

  • Già tháng: ≥ 42 0/7 tuần

Tài liệu tham khảo chung

  1. 1. Lee AC, Panchal P, Folger L, et al: Diagnostic accuracy of neonatal assessment for gestational age determination: A systematic review. Pediatrics 140(6):e20171423, 2017. doi: 10.1542/peds.2017-1423

  2. 2. Spong CY: Defining "term" pregnancy: Recommendations from the Defining "Term" Pregnancy Workgroup. JAMA 309(23):2445–2446, 2013. doi: 10.1001/jama.2013.6235

Thông tin thêm

Tài nguyên bằng tiếng Anh sau đây có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.

  1. American College of Obstetricians and Gynecologists (ACOG): Phương pháp ước tính ngày đến hạn (tái khẳng định vào năm 2022)