Thiếu Protein C

TheoJoel L. Moake, MD, Baylor College of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 08 2023

Vì protein C hoạt hóa làm thoái hóa các yếu tố đông máu Va và VIIIa nên thiếu protein C dẫn đến huyết khối tĩnh mạch.

(Xem thêm Tổng quan các rối loạn huyết khối.)

Protein C là một protein phụ thuộc vitamin K, cũng như các yếu tố đông máu II (protrombin), VII, IX, X và protein S và Z. Do protein C hoạt hóa (APC) làm suy giảm các yếu tố Va và VIIIa nên APC là chất chống đông máu tự nhiên trong huyết tương. . Giảm protein C do bất thường di truyền hoặc mắc phải dẫn đến huyết khối tĩnh mạch (1).

Thiếu hụt protein huyết tương dị hợp tử có tỷ lệ hiện mắc là 0,2% đến 0,5% (2); trong các nghiên cứu gia đình về những người được khảo sát có triệu chứng, nguy cơ bị thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE) trong suốt cuộc đời là rất cao. Ngoài ra, nguy cơ VTE tái phát rất cao (3). Điều quan trọng cần nhận ra là kết quả quan sát được trong các nghiên cứu gia đình có thể không khái quát được cho tất cả bệnh nhân bị thiếu hụt protein C.

Thiếu hụt đồng hợp tử hoặc thiếu hụt dị hợp tử kép gây ra ban xuất huyết tối cấp ở trẻ sơ sinh, tức là một loại đông máu rải rác trong lòng mạch (DIC) nặng ở trẻ sơ sinh, biểu hiện bằng các vết bầm máu và huyết khối tĩnh mạch và huyết khối động mạch lan rộng, thường vào ngày đầu tiên của cuộc đời.

Giảm protein C mắc phải xảy ra ở bệnh nhân bị bệnh gan hoặc đông máu rải rác trong lòng mạch (DIC) và trong khi điều trị bằng warfarin.

Chẩn đoán dựa trên xét nghiệm huyết tương về kháng nguyên và chức năng.

Tài liệu tham khảo chung

  1. 1. Dinarvand P, Moser KA. Protein C Deficiency. Arch Pathol Lab Med 2019;143(10):1281-1285. doi:10.5858/arpa.2017-0403-RS

  2. 2. Tait RC, Walker ID, Reitsma PH, et al. Prevalence of protein C deficiency in the healthy population. Thromb Haemost 1995;73(1):87-93.

  3. 3. Lijfering WM, Brouwer JL, Veeger NJ, et al. Selective testing for thrombophilia in patients with first venous thrombosis: results from a retrospective family cohort study on absolute thrombotic risk for currently known thrombophilic defects in 2479 relatives. Blood 2009;113(21):5314-5322. doi:10.1182/blood-2008-10-184879

Điều trị thiếu hụt Protein C

  • Chống đông

Bệnh nhân bị huyết khối có triệu chứng có thể được điều trị bằng thuốc chống đông máu đường uống trực tiếp (DOAC) hoặc warfarin.

Khi bắt đầu điều trị bằng warfarin, điều quan trọng là các bác sĩ lâm sàng phải sử dụng liều điều trị của heparin hoặc heparin trọng lượng phân tử thấp để chống đông máu ban đầu và tránh dùng liều nạp warfarin. Thay vào đó, một khi bệnh nhân được điều trị bằng thuốc chống đông máu bằng thuốc tiêm, nên bắt đầu dùng warfarin với liều duy trì ước tính (ví dụ: 5 mg mỗi ngày) và thuốc chống đông máu qua đường tiêm nên tiếp tục trong ít nhất 5 ngày và cho đến khi INR 2.

Vì protein C là một protein phụ thuộc vitamin K và có thời gian bán hủy ngắn so với yếu tố II và X, việc ngừng thuốc chống đông đường tiêm trước khi nồng độ yếu tố II và X giảm đủ (20% đến 40% hoạt động bình thường) có thể dẫn đến hoặc tử da do warfarin. Biến chứng này có thể tránh được bằng cách sử dụng DOAC, có vẻ hiệu quả như warfarin trong phòng ngừa thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch ở bệnh nhân thiếu protein C.

Ban xuất huyết ở trể sơ sinh gây tử vong nếu không thay thể protein C (sử dụng huyết tương bình thường hoặc cô đặc tinh khiết) cùng với chống đông bằng heparin hoặc heparin trọng lượng phân tử thấp.