(Xem thêm Tổng quan về chấn thương bụng Tổng quan về chấn thương bụng Ổ bụng có thể bị tổn thương trong nhiều loại chấn thương khác nhau; tổn thương có thể khu trú ở bụng hoặc đi kèm với chấn thương nặng, đa chấn thương khác. Tính chất và mức độ nghiêm trọng của... đọc thêm .)
Căn nguyên của chấn thương lách
Lực chấn thương lớn (ví dụ, va chạm xe) hoặc vết thương xuyên thấu (ví dụ, vết dao đâm, vết đạn bắn) đều có thể gây tổn thương lách. Sự tăng kích thước lách do bệnh virus Epstein-Barr (bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn Bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn do siêu vi khuẩn Epstein-Barr (EBV, vi rút herpes type 4) và có đặc điểm là mệt mỏi, sốt, viêm họng, và hạch to. Mệt mỏi có thể kéo dài hàng tuần hoặc hàng... đọc thêm hoặc Epstein-Barr virus sau ghép tạng – giả u lympho) có thể vỡ ra với chấn thương nhẹ hoặc thậm chí tự phát. Các tổn thương ở lách bao gồm các khối máu tụ dưới bao và các vết rách bao nhỏ đến các vết rách sâu vào nhu mô, tổn thương đụng dập chủ yếu và đứt cuống.
Phân loại
Tổn thương lách được phân theo mức độ nặng là 5 mức độ:
Các lớp thương tích lách
Mức độ | Tổn thương |
---|---|
1 | Máu tụ dưới bao < 10% diện tích bề mặt Vết rách sâu < 1 cm |
2 | Máu tụ dưới bao 10-50% diện tích bề mặt, tụ máu nhu mô < 5cm. Vết rách sâu 1-3 cm và không bao gồm mạng mạch |
3 | Tụ máu dưới bao > 50% diện tích bề mặt, máu tụ trong nhu mô ≥ 5 cm, bất kỳ khối máu tụ mở rộng hoặc vỡ ra Vết rách sâu > 3 cm hoặc liên quan đến mạng mạch |
4 | Tổn thương rách có liên quan đến nhu mô hoặc cuống mạch và gây giảm tưới máu lách > 25% lá lách |
5 | lách bị vỡ hoàn toàn chấn thương cuống mạch gây mất tưới máu lách |
Sinh bệnh học chấn thương lách
Hậu quả chính tức thì của tổn thương lách là xuất huyết vào khoang phúc mạc. Số lượng xuất huyết từ nhỏ đến lớn, tùy thuộc vào tính chất và mức độ tổn thương. Nhiều vết rách nhỏ, đặc biệt ở trẻ em, có thể tự ngưng chảy máu. Các tổn thương lớn hơn gây ra xuất huyết trầm trọng, thường dẫn tới sốc mất máu Sốc Sốc là tình trạng suy giảm tưới máu cơ quan với kết quả là rối loạn chức năng tế bào và tử vong. Cơ chế có thể làm giảm khối lượng tuần hoàn, giảm cung lượng tim, và giãn mạch, đôi khi shunt... đọc thêm . Khối máu tụ lách đôi khi có thể vỡ, thường là trong vài ngày đầu, mặc dù vỡ có thể xảy ra từ vài giờ đến thậm chí vài tháng sau khi bị chấn thương.
Các triệu chứng và dấu hiệu của chấn thương lách
Các biểu hiện xuất huyết chủ yếu, bao gồm sốc mất máu, đau bụng, và chướng bụng, thường dễ phát hiện trên lâm sàng. Xuất huyết nhỏ hơn gây đau bụng 1/4 trên trái, đôi khi lan lên vai trái. Các bệnh nhân có cơn đau 1/4 bụng trên trái không giải thích được, đặc biệt nếu có dấu hiệu giảm thể tích máu hay sốc, nên được hỏi về chấn thương gần đây. Cần nghi ngờ chấn thương lách ở những bệnh nhân đã gãy xương sườn.
Chẩn đoán chấn thương lách
Hình ảnh (CT hoặc siêu âm)
Tổn thương lách được xác nhận bằng CT ở những bệnh nhân ổn định và siêu âm tại giường (chỗ điều trị) hoặc mở ổ bụng thăm dò ở những bệnh nhân không ổn định.
Điều trị chấn thương lách
Theo dõi
Gây tắc mạch
Đôi khi phẫu thuật sửa chữa hoặc cắt lách
Trong quá khứ, điều trị cho bất kỳ tổn thương lách nào đều là cắt lách. Tuy nhiên, cần phải tránh cắt lách nếu có thể, đặc biệt là ở bệnh nhân cao tuổi, trẻ em và bệnh nhân có bệnh ác tính về huyết học, để tránh dẫn đến dễ bị nhiễm trùng do vi khuẩn, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng huyết nặng sau cắt lách. Các căn nguyên phổ biến nhất là Streptococcus pneumoniae, nhưng các Neisseriavi khuẩn có vỏ khác như Haemophilus sp.
Hiện nay, hầu hết các chấn thương lách mức độ thấp và mức độ nặng đều có thể được xử trí không cần phẫu thuật, ngay cả ở những bệnh nhân > 55 tuổi. Các bệnh nhân ổn định huyết động không có các chỉ định khác cho phẫu thuật mở bụng (ví dụ thủng tạng rỗng) có thể được theo dõi qua dấu hiệu sinh tồn và mức hematocrit (Hct) liên tiếp. Nhu cầu truyền máu tương thích với điều trị không phẫu thuật, đặc biệt khi có các tổn thương khác đi kèm (ví dụ, gãy xương dài Gãy thân xương đùi Gãy xương đùi thường sau một chấn thương mạnh và biểu hiện lâm sàng rõ. Điều trị cần thiết phải bất động nẹp ngay lập tức, kéo giãn và mổ mở kết hợp xương sau (ORIF). (Xem thêm Tổng quan về... đọc thêm ). Tuy nhiên, phải có một ngưỡng truyền máu đã xác định trước (thường là 2 đơn vị đối với các tổn thương lách đơn độc), vượt quá ngưỡng đó cần phải tiến hành phẫu thuật để giảm tỉ lệ tử vong. Ở một trung tâm chấn thương lớn, những người điều trị không phẫu thuật thất bại, 75% thất bại trong vòng 2 ngày, 88% trong 5 ngày và 93% trong vòng 7 ngày sau khi bị chấn thương (1 Tài liệu tham khảo về điều trị Chấn thương lách thường do đụng dập vào ổ bụng. Bệnh nhân thường bị đau bụng, đôi khi lan lên vai, và có cảm ứng phúc mạc. Chẩn đoán được thực hiện bằng CT hoặc siêu âm. Điều trị bằng theo dõi... đọc thêm ).
Tương tự chấn thương gan Tổn thương gan Tổn thương gan có thể là kết quả của chấn thương đụng dập hoặc xuyên thủng. Các bệnh nhân có đau bụng, đôi khi lan lên vai, và cảm ứng phúc mạc. Chẩn đoán được thực hiện bằng CT hoặc siêu âm... đọc thêm , không có sự đồng thuận trong các tài liệu về thời gian hạn chế hoạt động, thời gian lưu trú tối ưu trong đơn vị hồi sức (ICU) hoặc bệnh viện, thời gian hồi phục chế độ ăn uống, hoặc nhu cầu cần lặp lại hình ảnh cho các tổn thương lách được điều trị không phẫu thuật. Tuy nhiên, chấn thương càng nặng, càng cần phải cẩn thận hơn trước khi cho phép tiếp tục các hoạt động có thể liên quan đến nâng vật nặng, thể thao va chạm hoặc chấn thương phần thân.
Bệnh nhân đang có xuất huyết mức độ đáng kể (nghĩa là các yêu cầu truyền máu liên tục và/hoặc suy giảm hematocrit [Hct]) cần phải phẫu thuật mở bụng. Đôi khi bệnh nhân ổn định về mặt huyết động, tiến hành chụp mạch gây tắc mạch chọn lọc.
Khi thực hiện phẫu thuật, các vết rách nhỏ thường có thể được khâu hoặc điều trị bằng các chất cầm máu cục bộ (ví dụ, xenlulose oxy hoá, keo fibrin, hợp chất của thrombin) hoặc cắt lách từng phần. nhưng đôi lúc cũng cần cắt lách toàn bộ. Những bệnh nhân bị cắt lách phải được chủng ngừa phế cầu; nhiều bác sĩ lâm sàng cũng tiêm phòng chống lại chủng Neisseria và chủng Haemophilus.
Tài liệu tham khảo về điều trị
Stassen NA, Bhullar I, Cheng JD: Nonoperative management of blunt hepatic injury: An Eastern Association for the Surgery of Trauma practice management guideline. J Trauma Acute Care Surg 73:S288-S293, 2012. doi: 10.1097/TA.0b013e318270160d
Những điểm chính
Chấn thường lách là phổ biến và có thể xảy ra với chấn thương nhẹ nếu lách to.
Các biến chứng chính là chảy máu ngay lập tức và vỡ khối máu tụ muộn.
Xác nhận chẩn đoán bằng CT ở những bệnh nhân ổn định và mở bụng thăm dò ở những bệnh nhân không ổn định.
Để tránh tăng vĩnh viễn sự nhạy cảm của bệnh nhân với các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn (do cắt lách), điều trị không phẫu thuật các tổn thương lách nếu có thể.
Thực hiện mở bụng hoặc chụp mạch gây tắc mạch ở những bệnh nhân có yêu cầu truyền máu liên tục và/hoặc giảm Hct.