Cách đánh giá cảm giác

TheoGeorge Newman, MD, PhD, Albert Einstein Medical Center
Xem xét bởiMichael C. Levin, MD, College of Medicine, University of Saskatchewan
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa đã sửa đổi Thg 8 2025
v25236083_vi

Tương tự như khám vận động, khám cảm giác được thiết kế để xác định vị trí rối loạn chức năng và giúp xác định xem vấn đề nằm ở vỏ não, đồi thị, đường dẫn truyền cảm giác trong não hay tủy sống hay dây thần kinh ngoại biên.

Để xác định vị trí, các yếu tố hữu ích nhất của việc khám bệnh bao gồm các xét nghiệm về cảm giác đau và nhiệt độ, được truyền qua bó gai đồi thị, cũng như cảm giác vị trí và cảm giác rung, được truyền qua bó cột sau qua con đường dẫn liềm giữa.

Kiểm tra cảm ứng có thể sàng lọc các bất thường nhưng ít hữu ích trong việc xác định vị trí, đòi hỏi phải kiểm tra chi tiết các loại cảm giác khác ở các vùng khác nhau trên cơ thể.

Để đánh giá khả năng cảm nhận được một vật sắc nhọn,test sàng lọc tốt nhất là sử dụng một chiếc đinh ghim an toàn hoặc vật sắc nhọn khác để chạm nhẹ vào mặt, thân mình, và tứ chi; bệnh nhân được hỏi cảm giác hai bên có như nhau không và cảm giác là rõ hay mơ hồ. Vật sắc nhọn được loại bỏ sau khi sử dụng để tránh các bệnh lây truyền qua đường máu (ví dụ: nhiễm HIV, viêm gan).

Chức năng cảm giác vỏ não được đánh giá bằng cách yêu cầu bệnh nhân xác định một đồ vật quen thuộc (ví dụ đồng xu, chìa khóa) đặt trong lòng bàn tay (sự nhận biết đồ vật) và các số được viết trên lòng bàn tay (cảm giác vẽ trên da) và để phân biệt giữa 1 và 2 đồng thời, dùng đinh ghim chạm và các vị trí gần nhau trên đầu ngón tay (phân biệt 2 điểm).

Một chỉ báo khác về suy giảm chức năng cảm giác vỏ não là tắt cảm giác, tức là không có khả năng xác định kích thích ở 1 bên khi cả 2 bên cơ thể được kiểm tra cùng lúc (kích thích đồng thời hai lần) ở bệnh nhân có thể xác định kích thích khi chỉ kiểm tra 1 bên cơ thể tại một thời điểm. Ví dụ, khi bị tắt cảm giác, bệnh nhân báo cáo chỉ cảm thấy cảm giác ở 1 bên khi đồng thời chạm vào cả 2 bên mặc dù họ có thể cảm thấy cảm giác ở cả 2 bên khi thử từng bên một.

Cảm giác nhiệt thường được khám với một âm thoa lạnh.

Cảm giác vị trí khớp được khám bằng cách di chuyển các đốt cuối cùng của các ngón tay của bệnh nhân, sau đó là ngón chân, lên hoặc xuống vài độ. Nếu bệnh nhân không thể xác định hướng của những chuyển động nhỏ này khi nhắm mắt, hãy thử những chuyển động lên xuống lớn hơn trước khi kiểm tra các khớp gần nhất tiếp theo (ví dụ: kiểm tra cổ chân nếu không cảm nhận được chuyển động của ngón chân).

Giả múa vờn là những cử động không tự ý có tính chất quằn quại, hay cử động như kiểu con rắn, của một chi do mất cảm giác tư thế nặng; các con đường vận động, bao gồm cả các hạch nền, được bảo tồn. Bộ não không thể nhận biết được chân tay đang ở đâu trong không gian, do đó chân tay sẽ cử động tự phát, và bệnh nhân phải sử dụng cơ quan thị giác để kiểm soát sự chuyển động của các chi. Điển hình, khi nhắm mắt, bệnh nhân không thể xác định vị trí của các chi trong không gian.

Không thể đứng bằng bàn chân khi nhắm mắt (nghiệm pháp Romberg) thể hiện sự giảm cảm giác tư thế ở các chi dưới. Khi có bệnh lý tiểu não, bệnh nhân cố gắng đứng bằng hai chân nghiêng về một bên nhưng gần nhau nhất có thể để không ngã và chỉ khi nhắm mắt. Trường hợp hiếm gặp có dấu hiệu này là mất chức năng tiền đình nặng cả hai bên (ví dụ, nhiễm độc aminoglycoside).

Để khám cảm giác rung, người khám đặt một ngón trỏ dưới khớp gian đốt xa của bệnh nhân và đặt âm thoa đang rung với tần số 128 Hz lên phía trên khớp và ghì nhẹ ngón tay phía dưới. Bệnh nhân được yêu cầu nói thời điểm không còn cảm giác rung để so sánh với người khám, người cảm thấy rung qua khớp của bệnh nhân.

Cảm giác xúc giác được khám với một núm bông.

Nếu cảm giác bị suy giảm, dạng giải phẫu gợi ý vị trí của tổn thương (xem thêm hình Khoanh cảm giác trên da, phân bố thần kinh ở da: phân bố thần kinh ở chi trênphân bố thần kinh ở da: chi dưới):

  • Phân bố kiểu đeo găng: Thần kinh ngoại biên ngọn chi

  • Phân bố kiểu nhánh thần kinh hoặc khoanh đoạn: Các dây thần kinh đơn lẻ (viêm đơn dây thần kinh đa ổ) hoặc rễ thần kinh (bệnh rễ thần kinh)

  • Thiếu sót cảm giác, vận động và phản xạ không đồng đều ở một chi: Đám rối cánh tay hoặc thắt lưng

  • Giảm cảm giác giảm dưới một mức khoanh đoạn nhất định: Tủy sống

  • Mất cảm giác vùng yên ngựa: Hội chứng đuôi ngựa

  • Kiểu giao bên mặt - thân minh: Thân não

  • Mất cảm giác nửa người: Não

  • Mất cảm giác nửa người đường giữa: Đồi thị hoặc cơ năng (tâm thần)

Vị trí của tổn thương được xác định bởi những thay đổi về phản xạ và cơ lực theo kiểu nào.

Khoanh cảm giác trên da

Phân bố thần kinh ở da: Chi trên

(Trích từ Anatomy, tái bản lần thứ 5, edited by R O’Rahilly. Philadelphia, WB Saunders Company, 1986; sử dụng có sự cho phép.)

Phân bố thần kinh ở da: Chi dưới

(Trích từ Anatomy,ed. 5, do R O’Rahilly biên tập. Philadelphia, sử dụng với sự cho phép của công ty WB Saunders, 1986)

quizzes_lightbulb_red
Test your KnowledgeTake a Quiz!