Nhiễm độc kẽm

TheoLarry E. Johnson, MD, PhD, University of Arkansas for Medical Sciences
Xem xét bởiGlenn D. Braunstein, MD, Cedars-Sinai Medical Center
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa đã sửa đổi Thg 5 2025
v48479722_vi

Kẽm (Zn) chứa chủ yếu ở xương, răng, tóc, da, gan, cơ, tế bào bạch cầu và tinh hoàn. Kẽm là một thành phần của hàng trăm loại enzyme, bao gồm nhiều nicotinamide adenine dinucleotide dehydrogenase (NADH), RNA và polymerase DNA, và các yếu tố phiên mã DNA cũng như alkaline phosphatase, superoxide dismutase và cacbonic anhydrase.

Lượng kẽm khuyến nghị cho người lớn là 40 mg/ngày; lượng kẽm khuyến nghị thấp hơn cho trẻ sơ sinh và trẻ em. Nhiễm độc là rất hiếm.

Dùng liều kẽm nguyên tố từ 100 đến 150 mg/ngày trong thời gian dài sẽ cản trở quá trình chuyển hóa đồng và gây ra nồng độ đồng trong máu thấp, hồng cầu nhỏ, giảm bạch cầu trung tính và suy giảm khả năng miễn dịch; chỉ nên dùng liều cao hơn trong thời gian ngắn và bệnh nhân phải theo dõi chặt chẽ.

Lượng ăn vào nhiều hơn (200 đến 800 mg/ngày), thường là dùng thức ăn có tính axit hoặc đồ uống đóng trong lon có dòng điện galvanic (mạ kẽm), có thể gây chán ăn, nôn ói, và tiêu chảy. Nhiễm độc mạn tính có thể dẫn đến thiếu hụt đồng và có thể gây tổn thương dây thần kinh.

Sốt khói kim loại, còn gọi là sốt do đúc đồng hoặc sốt kẽm, là do hít phải khói oxit kẽm công nghiệp; gây ra sốt, khó thở, buồn nôn, mệt mỏi, đau nhức cơ và có vị kim loại trong miệng. Khởi phát triệu chứng thường là 4 đến 12 giờ sau khi phơi nhiễm. Các triệu chứng thường hết sau 12 đến 24 giờ trong môi trường không có kẽm.

Chẩn đoán nhiễm độc kẽm thường dựa trên quá trình thời gian và tiền sử phơi nhiễm.

Điều trị nhiễm độc kẽm bao gồm việc loại bỏ sự phơi nhiễm với kẽm; không có sẵn thuốc giải độc.

quizzes_lightbulb_red
Test your KnowledgeTake a Quiz!