Tổng quan về bệnh Prion

(Bệnh xốp não lây truyền)

TheoPierluigi Gambetti, MD, Case Western Reserve University
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 11 2022

Bệnh Prion là các rối loạn thoái hoá não tiến triển, gây tử vong và không thể điều trị.

Các loại bệnh prion nổi bật bao gồm

Một thể mới được xác định gần đây là bệnh prion liên quan đến tiêu chảy và bệnh lý thần kinh thực vật, loại này có tính di truyền.

Các bệnh Prion gây ra do sự xoắn không chính xác của một protein não trên bề mặt tế bào bình thường được gọi là prion protein tế bào (PrPC), không rõ chức năng chính xác là gì. Các prion protein bị xoắn sai được gọi là Prions hoặc scrapie PrP (PrPSc-từ tên của bệnh prion nguyên mẫu của cừu).

Prion (PrPSc) gây bệnh và có thể lây truyền. Chúng gây ra bệnh prion bằng cách

  • Tự sao chép: PrPSc gây chuyển dạng conformation của PrPC, tạo bản sao PrPSc, trong phản ứng dây chuyền, sẽ tạo ra sự chuyển đổi của PrPC vào PrPSc. Quá trình chuyển đổi này làm lan rộng PrPSc đến các khu vực khác nhau của bộ não.

  • Gây chết tế bào thần kinh

Bình thường PrPC hòa tan trong nước và nhạy cảm với protease, nhưng một tỷ lệ lớn PrPSc không tan trong nước và đề kháng mạnh với quá trình giáng hóa bởi protease (quá trình này ở PrPSc tương tự như beta-amyloid trong bệnh Alzheimer), dẫn đến sự tích tụ tuy chậm nhưng không thể đảo ngược trong tế bào và gây chết tế bào thần kinh. Kèm theo đó, các thay đổi bệnh lý bao gồm tăng tế bào thần kinh đệm và các thay đổi dạng hốc đặc trưng trên mô học (dạng bọt xốp), dẫn tới sa sút trí tuệ và các thiếu sót thần kinh khác. Trong các bệnh prion mắc phải, các triệu chứng và dấu hiệu xuất hiện vài tháng đến vài năm sau lần đầu tiên tiếp xúc với PrPSc

Nên cân nhắc chẩn đoán Prion ở tất cả các bệnh nhân sa sút trí tuệ, đặc biệt nếu sa sút trí tuệ tiến triển nhanh.

Đường lây truyền prion

Bệnh Prion bắt nguồn

  • Tản phát (dường như bắt đầu tự phát, không rõ nguyên nhân)

  • Qua di truyền (có tính gia đình)

  • Qua truyền nhiễm

Bệnh prion tản phát là dạng phổ biến nhất, với tỷ lệ mắc bệnh hàng năm trên toàn thế giới khoảng 1 đến 2/1 triệu người. Hiên nay chưa rõ thể PrPSc đầu tiên được hình thành như thế nào.

Bệnh prion có tính gia đình là do khuyết tật trong gen PrP (PRNP), gen này nằm trong nhánh ngắn của nhiễm sắc thể 20. Các đột biến gen gây ra bệnh prion hầu hết đều là gen trội trên nhiễm sắc thể thường; tức là các gen này gây bệnh khi chỉ được di truyền từ bố hoặc mẹ. Ngoài ra, tỷ lệ biểu hiện kiểu hình cũng thay đổi; tức là, tùy thuộc vào loại đột biến, tỷ lệ phần trăm người mang đột biến có dấu hiệu lâm sàng của bệnh trong suốt cuộc đời của họ luôn thay đổi.

Có hơn 50 đột biến. Các khiếm khuyết gen khác nhau gây ra các loại bệnh prion khác nhau, bao gồm

Cho đến nay, các nhà nghiên cứu chỉ xác định được một đột biến gây ra mất ngủ gây tử vong có tính gia đình, thể gia đình của mất ngủ gây chết người.

Các đột biến PRNP làm thay đổi trình tự axit amin của PrPC, làm nó xoắn sai lệch và trở thành PrPSc. Những bất thường nhỏ trong các codon đặc hiệu (các trình tự nucleotide là những cấu trúc của gen) bản thân chúng không gây bệnh, nhưng có thể quyết định các triệu chứng chủ đạo và tỷ lệ tiến triển của bệnh trong các bệnh do prion có tính gia đình và các bệnh prion khác (1).

Các bệnh prion truyền nhiễm hiếm gặp. Chúng có thể lây truyền được

  • Từ người này sang người khác: Do thầy thuốc thông/do sử dụng thuốc qua cấy ghép nội tạng và ghép mô, sử dụng các dụng cụ phẫu thuật thần kinh bị ô nhiễm, hoặc hiếm gặp là truyền máu (như trong vCJD); hoặc thông qua ăn tục ăn thịt đồng loại (như trong kuru)

  • Từ động vật sang người: Qua việc ăn thịt bò bị ô nhiễm (như trong vCJD)

Các bệnh do Prion không lây truyền thông qua tiếp xúc trực tiếp từ người với người.

Bệnh Prion xảy ra ở nhiều động vật có vú (ví dụ như chồn, hươu nai, hươu, cừu và gia súc) và có thể lây lan giữa các loài thông qua chuỗi thức ăn. Tuy nhiên, hiện tượng lây truyền từ động vật sang người chỉ được quan sát thấy vCJD, sau khi tiêu thụ thịt bò có nguồn gốc từ bò mắc bệnh viêm não thể bọt biển (BSE hoặc bệnh bò điên).

Ở hầu hết các bang của Hoa Kỳ, Canada, Hàn Quốc, Na Uy, Phần Lan và Thụy Điển (2), người ta lo ngại rằng bệnh suy mòn mạn tính (CWD), bệnh prion ở nai sừng tấm và hươu, có thể lây truyền cho những người săn bắn, giết thịt hoặc ăn các động vật bị bệnh. Bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng việc truyền CWD từ động vật sang người có thể xảy ra và dữ liệu gần đây chỉ ra rằng các rào cản giữa các loài có thể yếu đi khi CWD được truyền từ động vật sang động vật nhiều lần (có thể xảy ra trong tự nhiên [3]) hoặc khi các chủng CWD thay đổi, có thể làm cho CWD có nhiều khả năng lây truyền sang người hơn.

Tài liệu tham khảo về truyền bệnh

  1. 1. Pocchiari M and Manson J, editors. Human Prion Diseases. In Handbook of Clinical Neurology, edited by M Pocchiari, and J Manson. New York, Elsevier, 2018, vol 153, pp. 2–498.

  2. 2. Benestad SL, Mitchell G, Simmons M, et al: First case of chronic wasting disease in Europe in a Norwegian free-ranging reindeer. Vet Res 47 (1):88, 2016 doi: 10.1186/s13567-016-0375-4

  3. 3. Barria MA, Telling GC, Gambetti P, et al: Generation of a new form of human PrPSc in vitro by interspecies transmission from cervid prions. J Biol Chem 286 (9):7490–7495, 2011 doi: 10.1074/jbc.M110.198465

Điều trị bệnh Prion

  • Chăm sóc hỗ trợ

Không có điều trị đối với bệnh prion. Điều trị là hỗ trợ.

Bệnh nhân cần chuẩn bị những điều căn dặn trước (ví dụ cách chăm sóc cuối đời được mong muốn) ngay sau khi bệnh được chẩn đoán.

Có thể khuyến cáo tư vấn di truyền cho các thành viên gia đình của bệnh nhân prion có tính gia đình.

Phòng ngừa bệnh Prion

Prion có khả năng kháng các kỹ thuật khử trùng tiêu chuẩn và có thể là nguy cơ cho các bệnh nhân khác và bác sĩ phẫu thuật, nhà giải phẫu bệnh, kỹ thuật viên xử lý các mô hoặc dụng cụ bị ô nhiễm.

Có thể ngăn ngừa quá trình truyền bệnh bằng cách sử dụng các biện pháp phòng ngừa khi xử lý các mô bị nhiễm bệnh và bằng các kỹ thuật thích hợp để làm sạch dụng cụ bị ô nhiễm. Sử dụng một trong các quy trình sau đây:

  • Nồi hấp hơi ở 132°C trong 1 giờ

  • Ngâm trong natri hydroxit 1 N (bình thường) hoặc dung dịch natri hypochlorite 10% trong 1 giờ