Bệnh Creutzfeldt-Jakob (CJD)

(Bệnh xốp não bán cấp,

TheoPierluigi Gambetti, MD, Case Western Reserve University
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 11 2022

Bệnh Creutzfeldt-Jakob (CJD) là bệnh prion ở người thường gặp nhất. Bệnh xảy ra trên toàn thế giới, có một số dạng và thể. Các triệu chứng CJD bao gồm sa sút trí tuệ, rung giật cơ và các thiếu sót của hệ thần kinh trung ương khác; tử vong thường xảy ra từ 4 tháng đến 2 năm sau khi nhiễm bệnh, tùy thuộc vào dạng và thể CJD. Điều trị là hỗ trợ.

(Xem thêm Tổng quan về bệnh Prion.)

Bệnh Creutzfeldt-Jakob có ba dạng (1):

  • Tản phát (sCJD)

  • Có tính gia đình

  • Mắc phải

CJD là thể phổ biến nhất, chiếm khoảng 85% số trường hợp. sCJD thường ảnh hưởng đến người > 40 tuổi (trung vị, khoảng 65 tuổi).

CJD có tính gia đình xảy ra trong khoảng 5 đến 15% các trường hợp. Di truyền gần như phổ biến là gen trội trên nhiễm sắc thể thường; tuổi khởi phát thường sớm hơn so với sCJD và thời gian mắc bệnh trung bình có thể dài hơn.

CJD mắc phải có thể chiếm < 1% số trường hợp. Xảy ra sau khi ăn thịt bò bị nhiễm prion (trong biến thể CJD [vCJD]). CJD do điều trị (iCJD) đã mắc phải thông qua việc sử dụng cấy ghép giác mạc hoặc màng cứng của người chết, điện cực nội sọ lập thể, hormone tăng trưởng hoặc gonadotropin được điều chế từ tuyến yên của con người (2). Khoảng một nửa trường hợp iCJD có những thay đổi tương tự như bệnh Alzheimer, gợi ý rằng iCJD, bệnh lý tương tự Alzheimer (ngoài CJD) có thể mắc phải do điều trị (3).

Biến thể CJD (vCJD)

vCJD là một dạng mắc phải hiếm gặp của CJD. Hầu hết các trường hợp đã xảy ra ở Vương quốc Anh (UK), nơi có 178 trường hợp tính đến ngày 7 tháng 5 năm 2022 (4), so với 55 trường hợp ở tất cả các quốc gia châu Âu và ngoài châu Âu khác tính đến tháng 5 năm 2022. vCJD xảy ra sau khi ăn thịt bò từ gia súc mắc bệnh não xốp ở bò (BSE), còn được gọi là bệnh bò điên.

Trong vCJD, các triệu chứng tiến triển ở độ tuổi trung bình trẻ hơn (< 30 tuổi) so với trong sCJD. Trong những trường hợp gần đây, thời gian ủ bệnh (thời gian từ khi ăn thịt bò nhiễm bệnh đến lúc phát triển các triệu chứng) là từ 12 đến > 20 năm.

Vào đầu những năm 1980, do các quy định đối với việc chế biến phụ phẩm từ động vật được nới lỏng, nên các mô bị nhiễm bệnh, có thể từ cừu bị nhiễm bệnh scrapie hoặc gia súc mắc bệnh BSE, đã đưa prion protein trâu bò (PrPSc) vào thức ăn gia súc. Hàng trăm ngàn gia súc tiến triển thành bệnh BSE. Mặc dù có sự phơi nhiễm rộng, nhưng rất ít người ăn thịt gia súc bị bệnh tiến triển thành vCJD.

Vì thời kỳ ủ bệnh trong BSE rất lâu, nên mối liên hệ giữa BSE và thức ăn bị ô nhiễm không được công nhận ở Anh cho đến khi BSE trở thành bệnh dịch. Dịch BSE được kiểm soát sau khi giết hàng loạt gia súc và sau khi thay đổi quy trình chế biến phụ phẩm giết mổ, làm giảm đáng kể sự phơi nhiễm thịt vào mô thần kinh. Tại Anh, số trường hợp mắc mới vCJD hàng năm, sau khi đạt đỉnh vào năm 2000, đã giảm đều đặn, chỉ còn lại 2 trường hợp sau năm 2011.

Bốn trường hợp vCJD có liên quan đến truyền máu; xảy ra ở những người được truyền máu từ năm 1996 đến năm 1999. Tại Anh, khoảng 1/2000 người có thể mang vCJD (dựa trên việc kiểm tra một số lượng lớn mẫu mô ruột thừa) nhưng không có triệu chứng; những người này có thể truyền bệnh nếu họ hiến máu hoặc phẫu thuật. Hiện chưa rõ liệu có một lượng lớn những người đã được truyền máu nhiễm bệnh và những người có nguy cơ tiến triển vCJD sau này hay không. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn giới thiệu người hiến máu liên quan đến vCJD có thể làm giảm hơn nữa nguy cơ lây truyền vCJD do truyền máu vốn đã rất thấp bên ngoài nước Pháp và Vương quốc Anh.

Mặc dù không có trường hợp vCJD nào bắt nguồn từ Bắc Mỹ được báo cáo, nhưng BSE đã được báo cáo ở gia súc Bắc Mỹ (6 ở Mỹ và 20 ở Canada [5]).

Tài liệu tham khảo chung

  1. 1. Gambetti P, Kong Q, Zou W, et al: Sporadic and familial CJD: Classification and characterisation. Br Med Bull 66 (1): 213–239, 2003 doi: https://doi.org/10.1093/bmb/66.1.213

  2. 2. Ritchie DL, Barria MA, Peden, AH, et al: UK Iatrogenic Creutzfeldt-Jakob disease: Investigating human prion transmission across genotypic barriers using human tissue-based and molecular approaches. Acta Neuropathol 133 (4): 579–595, 2017  doi: 10.1007/s00401-016-1638-x

  3. 3. Cali I, Cohen ML, Haik S, et al: Iatrogenic Creutzfeldt-Jakob disease with amyloid-β pathology: An international study. Acta Neuropathol Commun 6 (1):5, 2018 doi: 10.1186/s40478-017-0503-z

  4. 4, Variant CJD cases worldwide: National CJD Research & Surveillance Unit. Dữ liệu chính xác đến ngày 7 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2022.

  5. 5. Centers for Disease Control and Prevention (CDC): BSE in North America. Đến ngày 10 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2022.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh Creutzfeldt-Jakob

Khoảng 70% số bệnh nhân bị bệnh Creutzfeldt-Jakob mất trí nhớ và lú lẫn, các triệu chứng này cuối cùng xuất hiện ở tất cả các bệnh nhân; 15 đến 20% có sự mất phối hợp và thất điều, thường biểu hiện sớm. Động kinh rung giật cơ khởi phát bởi tiếng động hoặc các kích thích giác quan khác (giật cơ khi giật mình) thường xuất hiện từ giai đoạn giữa đến giai đoạn cuối của bệnh. Người bị vCJD cũng biểu hiện các triệu chứng tâm thần khác (ví dụ: lo âu, trầm cảm) thay vì mất trí nhớ. Các triệu chứng giai đoạn muộn là tương tự nhau ở cả hai thể.

Mặc dù sa sút trí tuệ, thất điều và giật cơ là những triệu chứng đặc trưng nhất nhưng các bất thường thần kinh khác (ví dụ, ảo giác, động kinh, bệnh thần kinh, các rối loạn vận động khác nhau) có thể xảy ra.

Các rối loạn về mắt (ví dụ, khiếm khuyết của thị trường, song thị, nhìn mờ, mất nhận thức thị giác) tồn tại khá phổ biến ở sCJD.

Chẩn đoán bệnh Creutzfeldt-Jakob

  • MRI khuếch tán

  • Các chất chỉ điểm trong dịch não tủy (CSF)

  • Loại trừ các rối loạn khác

Nên cân nhắc chẩn đoán bệnh Creutzfeldt-Jakob ở những bệnh nhân cao tuổi mắc sa sút trí tuệ tiến triển nhanh, đặc biệt nếu đi kèm với rung giật cơ hoặc thất điều. Tuy nhiên, các bệnh lý khác có thể biểu hiện giống CJD và phải được cân nhắc; bao gồm:

  • Viêm mạch máu ở hệ thần kinh trung ương (CNS)

  • Bệnh Alzheimer tiến triển nhanh

  • Bệnh não Hashimoto (bệnh não tự miễn đặc trưng bởi nồng độ kháng thể tuyến giáp cao và đáp ứng với corticosteroid)

  • U lympho nội mạch (một loại u lympho hiếm)

  • Viêm não có ảnh hưởng đến hệ viền, thân não và tiểu não

  • Sa sút trí tuệ thể Lewy

  • Ngộc độc lithium hoặc bismuth.

Cần nghi nhờ CJD ở những bệnh nhân trẻ có triệu chứng khi họ tiếp xúc với thịt bò bị nhiễm prion tại Anh hoặc các quốc gia có nguy cơ khác hoặc có tiền sử gia đình về CJD (CJD có tính gia đình). Trong một số hiếm các trường hợp, sCJD tiến triển ở những bệnh nhân trẻ, nhưng ở những bệnh nhân này, phải loại trừ các bệnh khác.

Chẩn đoán CJD có thể gặp khó khăn.

Xét nghiệm chẩn đoán không xâm lấn tốt nhất cho CJD là

  • MRI khuếch tán

Nó có thể phát hiện các vùng cường độ loang lổ đang phát triển (vùng sáng) trong dải vỏ não và/hoặc hạch nền, gợi ý mạnh mẽ về bệnh CJD.

Protein 14-3-3, enolase đặc hiệu não và protein tau thường tăng trong dịch não tủy nhưng không đặc hiệu cho CJD. Xét nghiệm CSF, được gọi là chuyển đổi do rung lắc theo thời gian thực (RT-QuIC), khuếch đại và phát hiện lượng hoạt động prion tối thiểu trong CSF; xét nghiệm này có vẻ chính xác hơn các xét nghiệm CSF trước đó, với độ nhạy khoảng 90% và độ đặc hiệu khoảng 99% (1). Một xét nghiệm tương tự có thể phát hiện bằng chứng vCJD một cách tin cậy bằng cách xác định prion trong nước tiểu.

Cần thực hiện điện não đồ. Kết quả dương tính với khoảng 70% bệnh nhân bị CJD; EEG cho thấy các sóng nhọn có tính chu kỳ đặc trưng, nhưng kiểu hình này thường xảy ra trong giai đoạn muộn của bệnh và có thể là thoáng qua.

Sinh thiết não thường không cần thiết.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

  1. 1. Foutz A, Appleby BS, Hamlin C, et al: Diagnostic and prognostic value of human prion detection in cerebrospinal fluid. Ann Neurol 81 (1):79–92, 2017 doi: 10.1002/ana.24833

Tiên lượng về bệnh Creutzfeldt-Jakob

Tử vong thường xảy ra trong vòng 6 đến 12 tháng, thường là do viêm phổi. Tuổi thọ của vCJD dài hơn (trung bình 1,5 năm).

Điều trị bệnh Creutzfeldt-Jakob

  • Chăm sóc hỗ trợ

Chỉ có điều trị hỗ trợ cho các triệu chứng liên quan đến CJD.

Phòng ngừa bệnh Creutzfeldt-Jakob

Vì không có cách điều trị hiệu quả nên phòng ngừa CJD lây truyền rất quan trọng.

Người lao động xử lý chất lỏng và mô từ bệnh nhân nghi ngờ có CJD phải đeo găng tay và tránh tiếp xúc với niêm mạc. Da nhiễm bệnh có thể được khử trùng bằng bôi dung dịch natri hydroxide 4% trong 5 đến 10 phút, sau đó rửa bằng nước.

Nồi hấp hơi 132°C trong 1 giờ, ngâm trong dung dịch natri hydroxyd 1 N (bình thường) hoặc dung dịch natri hypochlorit 10% trong 1 giờ được khuyến cáo đối với các dụng cụ tiếp xúc với mô của bệnh nhân nghi ngờ hoặc chẩn đoán xác định CJD. Các phương pháp khử trùng tiêu chuẩn (ví dụ như formalin) không có hiệu quả.

Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) hiện đang tiến hành giám sát BSE.

Những điểm chính

  • Bệnh Creutzfeldt-Jakob (CJD) là bệnh prion người thường gặp nhất; thể tản phát chiếm khoảng 85% các trường hợp.

  • CJD mắc phải có thể chiếm < 1% các trường hợp CJD, nguyên nhân do ăn thịt bò bị nhiễm prion (trong biến thể CJD [vCJD]) hoặc có thể bị mắc phải do thầy thuốc gây ra.

  • Hầu hết các trường hợp vCJD đã xảy ra ở Vương quốc Anh (178 trường hợp tính đến tháng 5 năm 2022, chỉ có 2 trường hợp kể từ năm 2011); 55 trường hợp đã xảy ra ở tất cả các quốc gia châu Âu và ngoài châu Âu khác tính đến tháng 5 năm 2022.

  • Khoảng 70% bệnh nhân bị CJD có mất trí nhớ và lú lẫn. Các triệu chứng này cuối cùng tiến triển ở tất cả các bệnh nhân; 15 đến 20% có sự mất phối hợp và thất điều.

  • Cân nhắc chẩn đoán CJD ở những bệnh nhân cao tuổi mắc sa sút trí tuệ tiến triển nhanh, đặc biệt nếu họ có rung giật cơ hoặc thất điều, và nghi ngờ ở những bệnh nhân trẻ có triệu chứng từng có tiền sử phơi nhiễm với thịt bò bị nhiễm prion, hoặc có tiền sử gia đình mắc bệnh CJD.

  • Chụp MRI theo trọng số khuếch tán để kiểm tra các vùng tăng tín hiệu loang lổ đang tiến triển trong dải vỏ não và/hoặc hạch nền, gợi ý mạnh mẽ bệnh CJD; cũng cân nhắc thực hiện kiểm tra RT-QuIC ở CSF.

  • Tử vong thường xảy ra trong vòng 6 đến 12 tháng, nhưng tuổi thọ của vCJD dài hơn, trung bình 1,5 năm.

  • Nên hấp tiệt trùng bằng hơi nước hoặc ngâm các dụng cụ bị nhiễm bệnh bằng natri hydroxit hoặc sodium hypochlorite để ngăn ngừa sự lây lan.