Tổng quan về thai nghén nguy cơ cao

TheoRaul Artal-Mittelmark, MD, Saint Louis University School of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 09 2022

Trong thai kỳ có nguy cơ cao, mẹ, thai nhi hoặc trẻ sơ sinh có nguy cơ cao về bệnh tật hoặc tử vong trước, trong hoặc sau khi sinh.

Đánh giá nguy cơ là một phần của chăm sóc tiền sản thông thường. Tiền sử gia đình và đánh giá di truyền là đặc biệt quan trọng. Các nguy cơ cũng được đánh giá trong hoặc ngay sau khi chuyển dạ và bất cứ lúc nào có tình trạng mới dẫn đến nguy cơ. Các yếu tố nguy cơ được đánh giá một cách có hệ thống vì mỗi yếu tố nguy cơ đơn lẻ sẽ làm tăng nguy cơ chung.

Đánh giá nguy cơ trong thời kỳ mang thai

Có một số hệ thống đánh giá và theo dõi các yếu tố có nguy cơ xảy ra trong khi mang thai. Có một số hệ thống đánh giá và theo dõi các yếu tố có nguy cơ xảy ra trong khi mang thai Hệ thống được sử dụng rộng rãi nhất là Hệ thống Theo dõi và Đánh giá khi mang thai (PRAMS), là một dự án của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) và các sở y tế nhà nước. PRAMS cung cấp thông tin cho các sở y tế nhà nước sử dụng để cải thiện sức khoẻ của bà mẹ và trẻ sơ sinh. PRAMS cũng cho phép CDC và các tiểu bang giám sát những thay đổi về chỉ số sức khoẻ (ví dụ như mang thai ngoài ý muốn, chăm sóc trước khi sinh, cho con bú, hút thuốc, uống rượu, sức khoẻ của trẻ sơ sinh).

Mang thai có nguy cơ cao đòi hỏi phải theo dõi chặt chẽ và đôi khi chuyển đến trung tâm sinh sản để theo dõi, đặc biệt là nếu phụ nữ có các tình trạng phức tạp có nguy cơ cao. Các trung tâm này cung cấp nhiều dịch vụ chuyên khoa và phụ chuyên khoa, do các bác sĩ chuyên khoa bà mẹ, thai nhi và trẻ sơ sinh cung cấp (1). Khi cần chuyển tuyến, chuyển trước, thay vì chuyển sau khi sinh, điều này sẽ dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở trẻ sơ sinh thấp hơn.

Các nguyên nhân phổ biến để chuyển viện trước khi sinh

Tài liệu tham khảo về đánh giá nguy cơ

  1. 1. American College of Obstetricians and Gynecologists: Levels of maternal care: Obstetric care consensus No. 9. Obstet Gynecol 134(2):428-434, 2019. doi: 10.1097/AOG.0000000000003384