Ghép tụy

TheoMartin Hertl, MD, PhD, Rush University Medical Center
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 08 2022

Ghép tụy là một hình thức thay thế tế bào beta của tụy qua đó có thể hồi phục lại mức đường huyết bình thường ở những bệnh nhân đái tháo đường. (Xem thêm Tổng quan về ghép tạng.)

Bởi vì người nhận thay đổi nguy cơ phải tiêm insulin sang các nguy cơ của các thuốc ức chế miễn dịch, khả năng đáp ứng đủ tiêu chuẩn ghép được giới hạn ở

  • Các bệnh nhân đái tháo đường loại 1 bị suy thận và do đó họ là các ứng viên cho việc ghép thận

Hơn 90% số ca ghép tụy bao gồm cả ghép thận.

Tại nhiều trung tâm, thất bại nhiều lần trong việc kiểm soát đường huyết bằng các điều trị chuẩn và các đợt hạ đường huyết không nhận biết được cũng là các tiêu chí lựa chọn.

Chống chỉ định tương đối bao gồm > 55 tuổi và có bệnh tim mạch xơ vữa động mạch đủ nặng, được định nghĩa là có nhồi máu cơ tim trước đó, phẫu thuật bắc cầu động mạch vành, can thiệp mạch vành qua da hoặc nghiệm pháp gắng sức dương tính; những yếu tố này làm gia tăng đáng kể nguy cơ xung quanh phâu thuật..

Các lựa chọn bao gồm

  • Ghép đồng thời tụy-thận (SPK)

  • Ghép tụy sau ghép thận (PAK)

  • Ghép tụy đơn độc

Các ưu điểm của ghép tụy-thận đồng thời là chỉ một lần sử dụng thuốc ức chế miễn dịch liều tấn công, khả năng bảo vệ thận mới ghép khỏi các tác dụng không mong muốn của tăng đường huyết và khả năng theo dõi thải ghép của thận; thận dường như bị thải ghép nhiều hơn tụy, nơi mà thải ghép khó phát hiện.

Các ưu điểm của ghép tụy sau ghép thận là khả năng tối ưu hóa sự hòa hợp kháng nguyên bạch cầu người (HLA) và thời gian ghép thận từ người cho sống.

Ghép tụy đơn độc mang lại ưu điểm với các bệnh nhân không có bệnh thận giai đoạn cuối nhưng có các biến chứng nặng của đái tháo đường bao gồm kiểm soát đường huyết không ổn định.

Người cho tụy

Những người cho gần đây thường là những người cho đã chết tuổi từ 10 đến 55 và không có tiền sử không dung nạp glucose hoặc nghiện rượu.

Đối với ghép tụy-thận đồng thời, tụy và thận đến từ cùng một người cho và có cùng những hạn chế của việc cho thận được áp dụng.

Một vài (< 1%) ca ghép đoạn từ những người cho sống đã được thực hiện, nhưng phẫu thuật này có những nguy cơ đáng kể đối với người cho (ví dụ nhồi máu lách, áp xe, viêm tụy, rò tụy, nang giả tụy và đái tháo đường thứ phát), hạn chế việc sử dụng rộng rãi.

Thủ thuật

Tạng hiến được chống đông và dung dịch bảo quản lạnh được xả vào trong động mạch chậu. Tụy được làm mát tại chỗ bằng nước muối loãng đóng băng, sau đó được lấy ra toàn bộ cùng với gan (để ghép cho một người nhận khác) và đoạn II tá tràng có chứa bóng Vater. Động mạch chậu cũng được lấy ra.

Tuyến tụy của người hiến tặng được đặt trong phúc mạc và mặt bên ở vùng bụng dưới của người nhận.

Trong ghép tụy-thận đồng thời, tụy được ghép vào khu vực giữa bên phảii của ổ bụng người nhận và thận được ghép vào góc phần tư dưới trái. Tụy của người nhận được giữ nguyên vị trí. Động mạch chậu người cho được dùng để tái tạo lại động mạch lách và động mạch mạc treo tràng trên của tụy ghép. Kỹ thuật này mang lại một động mạch giúp kết nối với các mạch máu người nhận. Các miệng nối cuối cùng được làm giữa động mạch chậu người cho với một trong các động mạch chậu người nhận và giữa tĩnh mạch cửa người cho với tĩnh mạch chậu người nhận. Như vậy, các sản phẩm nội tiết được bài tiết vào tuần hoàn hệ thống gây ra tăng insulin máu; đôi khi hệ thống tĩnh mạch tụy của người cho được nối với một nhánh tĩnh mạch cửa để tái lập các điều kiện sinh lý, mặc dù thủ thuật này đòi hỏi nhiều yêu cầu khắt khe hơn và lợi ích mang lại còn chưa thực sự rõ ràng. Tá tràng được khâu vào vòm bàng quang hoặc vào hỗng tràng để dẫn lưu các sản phẩm ngoại tiết.

Phác đồ ức chế miễn dịch thay đổi nhưng thường bao gồm các immunoglobulins ức chế miễn dịch, thuốc ức chế calcineurin, thuốc ức chế tổng hợp purine và corticosteroid (có thể được giảm dần liều trong thời gian trên 12 tháng). (Xem thêm Ức chế miễn dịch sau cấy ghép).

Các biến chứng của cấy ghép tụy

(Xem thêm Các biến chứng sau ghép)

Thải ghép

Mặc dù sử dụng thuốc ức chế miễn dịch đầy đủ, thải ghép cấp vẫn tiến triển ở 20% đến 40% bệnh nhân, chủ yếu ảnh hưởng đến các thành phần ngoại tiết, không phải các thành phần nội tiết.

So với ghép thận đơn độc, ghép tụy-thận đồng thời có nguy cơ bị thải ghép cao hơn và các đợt thải ghép có xu hướng xảy ra muộn hơn, tái phát thải ghép thường xuyên hơn và kháng corticosteroid. Triệu chứng và dấu hiệu không đặc hiệu (xem bảng Các triệu chứng của thải ghép tụy theo phân loại).

Sau khi ghép tụy-thận đồng thời và ghép tụy sau ghép thận, thải ghép tụy được phát hiện tốt nhất dựa trên dấu hiệu tăng creatinin máu vì thải ghép tụy thường luôn đi kèm với thải ghép thận. Sau khi ghép tụy đơn độc, nồng độ amylase niệu ổn định ở những bệnh nhân có dẫn lưu nước tiểu loại trừ thải ghép; sự giảm gợi ý một số dạng của rối loạn chức năng tạng ghép nhưng không đăc hiệu cho thải ghép. Do đó phát hiện sớm là khó khăn.

Chẩn đoán xác định dựa vào kết quả sinh thiết dưới da dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc sinh thiết xuyên tá tràng qua nội soi.

Điều trị bằng globulin kháng tế bào tuyến ức.

Bảng

Các biến chứng khác

Các biến chứng sớm ảnh hưởng đến 10 đến 15% bệnh nhân và bao gồm nhiễm trùng và hở vết mổ, đái máu đại thể, rò nước tiểu trong ổ bụng, viêm tụy trào ngược, nhiễm trùng đường tiểu tái phát, tắc ruột non, áp xe bụng và huyết khối tạng ghép.

Các biến chứng muộn liên quan đến mất natri bicarbonate (NaHCO3) của tụy qua nước tiểu, gây ra tình trạng giảm thể tích và toan chuyển hóa không có khoảng trống anion. Tăng insulin máu dường như không gây ảnh hưởng bất lợi đến chuyển hóa glucose hoặc lipid.

Tiên lượng về cấy ghép tuyến tụy

Nhìn chung, tỷ lệ sống sót 1 năm là

  • Bệnh nhân: > 95%

  • Mô ghép: ≥ 85%

Tỷ lệ sống còn liệu có cao hơn so với các bệnh nhân không ghép hay không hiện còn chưa rõ; tuy nhiên, lợi ích chính của phẫu thuật này là bệnh nhân được giải phóng khỏi liệu pháp dùng insulin và ổn định lại hoặc một số sự cải thiện của các biến chứng đái tháo đường (như bệnh thận, bệnh thần kinh).

Tỷ lệ mất tạng ghép do thải ghép miễn dịch trong ghép tụy sau ghép thận và ghép tụy đơn thuần là cao hơn, có thể vì các tụy ghép thiếu sự theo dõi sát tình trạng thải ghép; ngược lại, thải ghép sau ghép tụy - thận đồng thời có thể được theo dõi thông qua các yếu tố gợi ý thải ghép thận được thiết lập.