Hồng cầu tròn và hồng cầu hình bầu dục di truyền

TheoEvan M. Braunstein, MD, PhD, Johns Hopkins University School of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 06 2022

Chứng tăng bạch cầu di truyền và tăng bạch cầu elip di truyền là những rối loạn màng tế bào hồng cầu (RBC) bẩm sinh có thể gây ra bệnh thiếu máu tán huyết nhẹ. Với hồng cầu hình bầu dục di truyền: các triệu chứng thường nhẹ hơn bao gồm các mức độ thiếu máu khác nhau, vàng da và lách to. Chẩn đoán khi có giảm sức bền hồng cầu, test kháng globulin âm tính. Có thể cắt lách nếu bệnh nhân 45 tuổi khi có triệu chứng, tuy nhiên hiếm.

(Xem thêm Tổng quan về Thiếu máu tan máu.)

Hồng cầu tròn di truyền (bệnh vàng da gia đình mạn tính, vàng da tan máu bẩm sinh, hồng cầu tròn gia đình, thiếu máu hồng cầu tròn) là một bệnh do biến đổi gen trội trên nhiễm săc thể thường. Khoảng 25% các trường hợp là lẻ tẻ. Đặc trưng của bệnh: tan máu, hồng cầu tròn, thiếu máu.

Hồng cầu hình elip di truyền là bệnh hiếm do đột biến gen trội trên nhiễm sắc thể thường, trong đó hồng cầu có hình bầu dục hoặc hình elip. Không bị hoặc ít thiếu máu, không bị hoặc ít tan máu trừ trường hợp một số bệnh nhân đồng hợp tử (pyropoikilocytosis di truyền).

Sinh lý bệnh

Sự thay đổi trong các protein màng gây ra các bất thường hồng cầu trong cả hai bệnh.

  • Trong hồng cầu tròn di truyền, diện tích bề mặt màng tế bào giảm không tương xứng với nội dung do mất các protein liên kết với màng tế bào. Diện tích bề mặt giảm của tế bào làm suy yếu sự mềm dẻo cần thiết để tế bào đi qua sự vi tuần hoàn của lách, gây ra sự tan máu nội bào.

  • Trong hồng cầu hình bầu dục di truyền, các đột biến di truyền dẫn đến sự yếu kém của bộ khung tế bào của tế bào, dẫn tới sự biến dạng của tế bào. Các hồng cầu bất thường bị chuyển đến và phá hủy ở lách.

Triệu chứng và Dấu hiệu

Trong hồng cầu tròn di truyền, các triệu chứng và dấu hiệu thường nhẹ. Có thể truyền máu khi thiếu máu nặng do nhiễm virus, giảm sản xuất hồng cầu thoáng qua gây cơn bất sản. Các giai đoạn này có thể tự giới hạn, ổn định sau khi hét nhiễm trùng, ngược lại một số trường hợp khác có thể cần điều trị cấp. Trường hợp nặng có xuất hiện vàng da vừa, thiếu máu. Lách to, ít thay đổi nhưng có thể gây khó chịu. Có thể có gan to. Có thể có sỏi mật. Mặc dù thường có một hoặc nhiều thành viên trong gia đình có các triệu chứng, nhưng một vài thế hệ có thể bị bỏ qua do sự khác biệt về mức độ đột biến của gen.

Trong bệnh hồng cầu hình bầu dục di truyền, các đặc điểm lâm sàng tương tự như bệnh tăng sinh spherocytosis di truyền nhưng có xu hướng nhẹ hơn; có thể có lách to.

Chẩn đoán

  • Cần làm các xét nghiệm: tiêu bản máu ngoại vi, sức bền hồng cầu, nghiệm pháp hồng cầu tự tan, test Coombs trực tiếp.

Cần nghĩ đến bệnh hồng cầu tròn hoặc hình bầu dục di truyền ở những bệnh nhân bị tan máu không rõ nguyên nhân, đặc biệt nếu có hiện tượng lách to, tiền sử gia đình có các biểu hiện tương tự, hoặc chỉ số hồng cầu có gợi ý.

Ở bệnh hồng cầu tròn di truyền, vì các hồng cầu có hình cầu và MCV bình thường, đường kính trung bình thấp hơn bình thường, và các hồng cầu giống các tế bào hình cầu. Nồng độ hemoglobin trung bình hồng cầu (MCHC) tăng. Tăng hồng cầu lưới từ 15 đến 30% và bạch cầu tăng là phổ biến.

Trong bệnh hồng cầu hình bầu dục di truyền, các hồng cầu thường có hình bâu dục hoặc hình xì gà; tuy nhiên, các triệu chứng lâm sàng đa dạng. Chẩn đoán xác định khi ít nhất có 60% hồng cầu tròn trên tiêu bản máu ngoại vi và có tiền sử gia đình.

Nếu nghi ngờ cần thực hiện các xét nghiệm sau:

Sức bền hồng cầu giảm là dấu hiệu đặc trưng, tuy nhiên có thể trong trường hợp bệnh hồng cầu tròn hay hồng cầu hình bầu dục di truyền nhẹ, điều này là bình thường, trừ khi ủ ở 37° C trong 24 giờ làm cạn kiệt các kho dự trữ ATP (adenosine triphosphate) của hồng cầu. Sự tự tan hồng cầu tăng lên và có thể được điều chỉnh bằng cách bổ sung nước muối sinh lý. Nghiệm pháp Coombs trực tiếp âm tính.

Điều trị

  • Đôi khi cắt lách

Cắt lách, sau khi tiêm phòng thích hợp, là phương pháp điều trị đặc hiệu duy nhất cho bệnh tăng hồng cầu hình cầu hoặc tăng bạch cầu hình elip di truyền. Nó được chỉ định ở những bệnh nhân bị tan máu có triệu chứng hoặc các biến chứng như đau túi mật hoặc cơn bất sản dai dẳng. Nếu có biến chứng sỏi mật hay viêm đường mật, nên cắt bỏ lách. Mặc dù hồng cầu tròn vẫn tồn tại sau khi cắt lách, nhưng đời sống sẽ kéo dài hơn. Thường là các triệu chứng được giải quyết, giảm tình trạng thiếu máu và hồng cầu lưới. Tuy nhiên, sức bền hồng cầu vẫn giảm.