Parapsoriasis

TheoShinjita Das, MD, Harvard Medical School
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 09 2023

Bệnh vẩy nến đề cập đến một nhóm bệnh ngoài da đặc trưng bởi các tổn thương dát sẩn hoặc có vẩy. Chẩn đoán là lâm sàng. Điều trị có thể bao gồm dạng phối hợp của nhiều loại thuốc bôi, thuốc uống và liệu pháp quang học.

Bệnh á vảy nến mô tả một nhóm bệnh chưa được hiểu rõ, không đồng nhất về nguyên nhân và khó phân biệt, có chung các đặc điểm lâm sàng. Bệnh á vẩy nến không liên quan đến bệnh vẩy nến; nó được gọi là vì có tổn tương mảng vẩy đôi khi biểu hiện tương tự.

Có 2 hình thức chung:

Bệnh á vảy nến có thể chuyển thành CTCL với bệnh á vảy nến thể mảng nhỏ với tỷ lệ nhỏ hơn so với bệnh á vảy nến thể mảng lớn (10% so với 35%) (1). Vì vậy, theo dõi lâm sàng và sinh thiết định kỳ có thể giúp xác định sự tiến triển của bệnh á vẩy nến thành CTCL.

Tài liệu tham khảo

  1. 1. Väkevä L, Sarna S, Vaalasti A, et al: A retrospective study of the probability of the evolution of parapsoriasis en plaques into mycosis fungoides. Acta Derm Venereol 85(4):318-323, 2005 doi: 10.1080/00015550510030087

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh á vẩy nến

Các mảng thường không có triệu chứng; sự xuất hiện điển hình của chúng là các dát mỏng, vẩy da, mờ, màu hồng và mảng có hình dạng hơi teo hoặc nếp nhăn. Ngược lại, các mảng trong bệnh vẩy nến giới hạn rõ và màu hồng với vẩy bạc dày.

Bệnh á vẩy nến thể mảng nhỏ được xác định bởi tổn thương có đường kính < 5 cm, trong khi bệnh á vẩy nến thể mảng lớn có tổn thương với đường kính > 5 cm.

Biểu hiện của bệnh á vẩy nến
Á vẩy nến thể mảng nhỏ
Á vẩy nến thể mảng nhỏ
Hình ảnh này cho thấy bệnh vẩy nến thể mảng nhỏ (tổn thương có đường kính &lt; 5 cm), là bệnh lành tính.

Hình ảnh do Susan Lindsley cung cấp thông qua Thư viện Hình ảnh Y tế Công cộng của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh.

Á vẩy nến thể mảng lớn ở mông
Á vẩy nến thể mảng lớn ở mông
Bức ảnh này cho thấy á vẩy nến thể mảng lớn ở mông, đặc trưng bởi các mảng mỏng, xỉn màu, màu hồng và hơi có vảy.

Hình ảnh do bác sĩ E. Laurie Tolman cung cấp.

Á vẩy nến thể mảng lớn ở thân mình
Á vẩy nến thể mảng lớn ở thân mình
Bức ảnh này cho thấy các mảng màu hồng, xỉn màu, có vảy ở lưng của á vảy nến thể mảng lớn.

Hình ảnh do bác sĩ E. Laurie Tolman cung cấp.

Trong á vẩy nến thể mảng nhỏ gồm các mảng hình dấu ấn ngón tay tiến triển dọc theo da, đặc biệt là ở sườn và bụng. Mặc dù mảng hình ngón tay của bệnh á vẩy nến thể mảng nhỏ có thể > 5 cm, việc chuyển thành CTCL rất hiếm khi xảy ở bệnh á vẩy nến mảng nhỏ.

Chẩn đoán bệnh á vẩy nến

  • Đánh giá lâm sàng

  • Đôi khi sinh thiết và xét nghiệm di truyền và phân tử để loại trừ u lympho tế bào T ở da (CTCL)

Chẩn đoán bệnh vẩy phấn hồng dựa vào lâm sàng.

Sinh thiết có thể hữu ích nếu có lo ngại về CTCL (xem chẩn đoán CTCL), nhưng nếu không thì chẩn đoán á vẩy nến là lâm sàng. Các mô bệnh học có thể không phải là điển hình đối với CTCL, nhưng phân tích mô hình miễn dịch và các nghiên cứu sắp xếp lại tế bào T có thể được thực hiện để xác định nhân bản tế bào T nếu nó tồn tại.

Chẩn đoán phân biệt bao gồm:

Điều quan trọng nhất là loại trừ CTCL vì CTCL sớm có thể khó phân biệt trên lâm sàng với bệnh vẩy nến thể mảng nhỏ. Sinh thiết là thông tin và có thể được sử dụng để phân biệt giữa bệnh vẩy nến mảng nhỏ và mảng lớn.

Chẩn đoán phân biệt của bệnh vẩy nến thể mảng lớn bao gồm những điều sau:

Điều trị bệnh á vẩy nến

Điều trị á vẩy nến thể mảng nhỏ là không cần thiết nhưng có thể bao gồm các chất làm mềm da, các chế phẩm hắc ín đặc biệt hoặc corticosteroid, liệu pháp ánh sáng, hoặc kết hợp.

Điều trị á vẩy nến thể mảng lớn là liệu pháp ánh sáng (UVB dải hẹp [NBUVB]) hoặc corticosteroid tại chỗ.

Tiên lượng về bệnh á vẩy nến

Tiến triển cho cả hai loại là không thể đoán trước; theo dõi lâm sàng định kỳ và sinh thiết cung cấp cho các triệu chứng về nguy cơ phát triển CTCL.

Những điểm chính

  • Bệnh vẩy nến là một nhóm rối loạn không đồng nhất về căn nguyên, có xu hướng có biểu hiện giống nhau – các mảng và mảng mỏng, có vẩy, xỉn, màu hồng và hơi teo hoặc nhăn nheo.

  • Bệnh á vảy nến có mảng đường kính < 5 cm thường lành tính; bệnh á vảy nến với các mảng có đường kính > 5 cm chuyển thành u lympho tế bào T ở da ở khoảng 10% số bệnh nhân mỗi thập kỷ.

  • Chẩn đoán dựa trên biểu hiện lâm sàng; sinh thiết và các xét nghiệm khác có thể là cần thiết để loại trừ u lympho tế bào T ở da.

  • Điều trị bệnh vẩy nến mảng nhỏ có triệu chứng và bệnh vẩy nến mảng lớn bằng đèn chiếu hoặc corticosteroid tại chỗ.