Bệnh vẩy nến

TheoShinjita Das, MD, Harvard Medical School
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 09 2023

Bệnh vẩy nến là một bệnh viêm có biểu hiện rõ nhất là các sẩn và mảng đỏ, ranh giới rõ bao phủ bởi các vẩy da trắng bạc. Nhiều yếu tố nguy cơ, bao gồm di truyền học. Các tác nhân thường gặp bao gồm chấn thương, nhiễm trùng và một số loại thuốc. Các triệu chứng thường ít, nhưng ngứa nhẹ đến nặng có thể xảy ra. Ảnh hưởng đến thẩm mỹ có thể là vấn đề lớn. Một số người cũng bị viêm khớp vẩy nến. Chẩn đoán dựa trên sự xuất hiện và phân bố tổn thương. Điều trị có thể bao gồm các phương pháp điều trị tại chỗ (ví dụ: corticosteroid, chất tương tự vitamin D3, thuốc ức chế calcineurin, tazarotene, roflumilast, tapinarof, chất làm mềm, axit salicylic, nhựa than đá, anthralin), liệu pháp quang học và khi nặng, dùng thuốc đường toàn thân (ví dụ: methotrexate, retinoid đường uống, cyclosporine, các thuốc ức chế miễn dịch khác [sinh học hoặc phân tử nhỏ]).

Bệnh vẩy nến là sự quá sản của tế bào sừng thượng bì kết hợp với sự viêm của lớp thượng bì và trung bì.

Ước tính về tỷ lệ hiện mắc của bệnh vẩy nến rất khác nhau giữa các quần thể khác nhau và có khả năng bệnh vẩy nến không được báo cáo đầy đủ ở những người có làn da sẫm màu so với những người có làn da sáng (1). Một nghiên cứu báo cáo tỷ lệ dao động từ 0 đến 1,4% ở trẻ em và 0,5 đến 11,4% ở người lớn (2). Đỉnh khởi phát là lưỡng cực, thường là ở lứa tuổi 16 đến 22 và ở độ tuổi từ 57 đến 60, nhưng có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi.

Tài liệu tham khảo

  1. 1. Kaufman BP, Alexis AF: Psoriasis in Skin of Color: Insights into the Epidemiology, Clinical Presentation, Genetics, Quality-of-Life Impact, and Treatment of Psoriasis in Non-White Racial/Ethnic Groups. Am J Clin Dermatol 19(3):405-423, 2018 doi: 10.1007/s40257-017-0332-7

  2. 2. Michalek IM, Loring B, John SM: A systematic review of worldwide epidemiology of psoriasis. J Eur Acad Dermatol Venereol 31(2):205–212, 2017 doi: 10.1111/jdv.13854

Căn nguyên của bệnh vẩy nến

Nguyên nhân của bệnh vẩy nến không rõ ràng nhưng liên quan đến kích thích miễn dịch của tế bào sừng thượng bì; tế bào T dường như đóng một vai trò trung tâm. Bệnh thường có trong tiền sử gia đình, và một số gen và kháng nguyên HLA (Cw6, B13, B17) có liên quan đến bệnh vẩy nến. Phân tích liên kết Gen đã xác định được rất nhiều locus nhạy cảm vẩy nến; các locus PSORS1 trên nhiễm sắc thể 6p21 đóng vai trò quan trọng nhất xác định tính nhạy cảm của bệnh nhân trong việc phát triển bệnh vẩy nến. Một yếu tố kích hoạt môi trường được cho là gây ra phản ứng viêm và sau đó là sự tăng sinh quá mức của tế bào sừng (1).

Các kích thích được xác định rõ bao gồm

  • chấn thương (hiện tượng Koebner)

  • Cháy nắng

  • Nhiễm HIV

  • Nhiễm trùng liên cầu tan huyết beta (dẫn đến bệnh vẩy nến guttate)

  • Thuốc (đặc biệt là thuốc chẹn beta, chloroquine, lithium, thuốc ức chế men chuyển angiotensin, indomethacin, terbinafine, interferon-alfa, thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch và thuốc ức chế yếu tố hoại tử khối u)

  • Căng thẳng cảm xúc

  • Uống rượu

  • Hút thuốc lá

  • Béo phì

Tài liệu tham khảo nguyên nhân gây bệnh

  1. 1. Zhou X, Chen Y, Cui L, et al: Advances in the pathogenesis of psoriasis: From keratinocyte perspective. Cell Death Dis 13(1):81, 2022 doi: 10.1038/s41419-022-04523-3

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh vẩy nến

Tổn thương không có triệu chứng hoặc ngứa và thường ở trên da đầu, bề mặt tiếp xúc của khuỷu tay và đầu gối, xương chậu, mông (thường là khe mông) và bộ phận sinh dục. Móng tay, lông mày, nách, rốn và vùng quanh hậu môn cũng có thể bị ảnh hưởng.

Các mảng có thể trông có màu tím ở những bệnh nhân có làn da sẫm màu và màu hồng hoặc màu đỏ ở những bệnh nhân có làn da sáng, nhưng các đặc điểm chính như bong tróc và phân bố (ví dụ: ở khuỷu tay mặt duỗi, thân, chân và vùng quanh rốn) đều đồng nhất trên tất cả các tông màu da.

Bệnh có thể lan rộng, liên quan đến sự sát nhập tổn thương.

Các tổn thương khác nhau về hình dạng tùy thuộc vào loại.

Biểu hiện của bệnh vẩy nến
Bệnh vẩy nến thể mảng
Bệnh vẩy nến thể mảng
Bệnh vẩy nến thường biểu hiện dưới dạng mảng phủ vảy dày, màu bạc, sáng bóng. Mảng là các tổn thương nổi cao, sờ thấy, ... đọc thêm

Hình ảnh do bác sĩ Thomas Habif cung cấp

Bệnh vẩy nến (thể mảng)
Bệnh vẩy nến (thể mảng)
Hình ảnh này cho thấy các mảng vẩy nến. Các mảng có thể trông có màu tím ở những bệnh nhân có tông màu da sẫm, nhưng cá... đọc thêm

Hình ảnh do bác sĩ Karen McKoy cung cấp.

Bệnh vẩy nến (khuỷu tay)
Bệnh vẩy nến (khuỷu tay)
Ảnh này cho thấy các mảng ban đỏ được bao phủ bởi các vảy màu trắng bạc trên bề mặt duỗi của khuỷu tay. Biểu hiện này l... đọc thêm

THƯ VIỆN HÌNH ẢNH KHOA HỌC

Bệnh vẩy nến (ngón tay)
Bệnh vẩy nến (ngón tay)
Bức ảnh này cho thấy các mảng da có vảy, ban đỏ, dày và móng tay đổi màu, dễ gãy.

BÁC SĨ HAROUT TANIELIAN/SCIENCE PHOTO LIBRARY

Bệnh vẩy nến (da đầu)
Bệnh vẩy nến (da đầu)
Ảnh này cho thấy vùng da đỏ, bong tróc và dày lên trên da đầu của một bệnh nhân mắc bệnh vẩy nến.

BÁC SĨ P. MARAZZI/SCIENCE PHOTO LIBRARY

Bệnh vẩy nến móng tay có vết rỗ và đổi màu
Bệnh vẩy nến móng tay có vết rỗ và đổi màu
Ảnh này cho thấy các vết rỗ không đều và các vùng đổi màu vàng nâu (các đốm dầu) ở một người bị bệnh vẩy nến.

© Springer Science+Business Media

Vẩy nến móng tay có đĩa móng dày lên và bong ra
Vẩy nến móng tay có đĩa móng dày lên và bong ra
Bức ảnh bên trái cho thấy móng của ngón chân cái dày lên và bong ra. Có thể thấy rỗ và bong móng ở bàn tay (bên phải), ... đọc thêm

© Springer Science+Business Media

Bệnh vẩy nến thể mụn mủ (bàn chân)
Bệnh vẩy nến thể mụn mủ (bàn chân)
Hình ảnh này tạo ra những mụn mủ lan rộng trên lòng bàn chân của một bệnh nhân bị bệnh vẩy nến thể mụn mủ đỏ da.

Hình ảnh do bác sĩ Karen McKoy cung cấp.

Viêm da đầu chi liên tục của Hallopeau
Viêm da đầu chi liên tục của Hallopeau
Bức ảnh này cho thấy các tổn thương mụn mủ trên đầu ngón tay ở một bệnh nhân bị viêm da đầu chi liên tục của Hallopeau ... đọc thêm

© Springer Science+Business Media

Bệnh vẩy nến thể đảo ngược
Bệnh vẩy nến thể đảo ngược
Trong bệnh vẩy nến thể đảo ngược, các mảng màu đỏ, sáng bóng (đôi khi không có vảy) hình thành ở các vùng kẽ như nếp gấ... đọc thêm

THƯ VIỆN HÌNH ẢNH KHOA HỌC

Bệnh vẩy nến thể giọt
Bệnh vẩy nến thể giọt
Bức ảnh này cho thấy nhiều mảng trên thân của một người đàn ông 22 tuổi bị bệnh vẩy nến thể giọt.

BÁC SĨ P. MARAZZI/SCIENCE PHOTO LIBRARY

Bệnh vẩy nến thể đỏ da
Bệnh vẩy nến thể đỏ da
Bức ảnh này cho thấy ban đỏ lan tỏa trên thân của một bệnh nhân mắc bệnh vẩy nến thể đỏ da.

THƯ VIỆN HÌNH ẢNH KHOA HỌC

Bệnh vẩy nến thể lòng bàn tay-lòng bàn chân (lòng bàn tay)
Bệnh vẩy nến thể lòng bàn tay-lòng bàn chân (lòng bàn tay)
Bức ảnh này cho thấy các mảng dày sừng rời rạc trên lòng bàn tay của một bệnh nhân mắc bệnh vẩy nến thể lòng bàn tay-lò... đọc thêm

THƯ VIỆN HÌNH ẢNH KHOA HỌC

Bệnh vẩy nến thể lòng bàn tay-lòng bàn chân (lòng bàn chân)
Bệnh vẩy nến thể lòng bàn tay-lòng bàn chân (lòng bàn chân)
Bức ảnh này cho thấy các mảng dày sừng rời rạc trên lòng bàn chân của một bệnh nhân mắc bệnh vẩy nến thể lòng bàn tay-l... đọc thêm

THƯ VIỆN HÌNH ẢNH KHOA HỌC

Bệnh mụn mủ lòng bàn tay-lòng bàn chân
Bệnh mụn mủ lòng bàn tay-lòng bàn chân
Bức ảnh này cho thấy các nốt ban đỏ và mụn mủ ở bàn chân của một bệnh nhân bị bệnh vẩy nến thể mụn mủ.

Hình ảnh do bác sĩ Karen McKoy cung cấp.

Trong số các thể bệnh vẩy nến khác nhau (xem bảng Các thể phụ của bệnh vẩy nến), bệnh vẩy nến thể mảng (bệnh vẩy nến thông thường hoặc bệnh vẩy nến thể mảng mạn tính) chiếm khoảng 90%; tổn thương là những sẩn hoặc mảng hồng ban rời rạc, phủ vảy dày, màu bạc, sáng bóng. Các tổn thương xuất hiện từng đợt và chuyển tiếp và thoái triển một cách tự phát hoặc với sự xuất hiện và thoái lui của các yếu tố kích thích.

Viêm khớp phát triển từ 5 đến 30% bệnh nhân và có thể tàn tật (viêm khớp vẩy nến); sự phá hủy cuối cùng cũng xảy ra.

Bệnh vẩy nến hiếm khi nguy hiểm đến tính mạng nhưng có thể ảnh hưởng đến thẩm mỹ của bệnh nhân. Bên cạnh diện mạo của bệnh nhân, thời gian cần thiết để điều trị các tổn thương da hoặc da đầu dài và luôn sử dụng duy trì quần áo và giường có thể ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống.

Bảng

Chẩn đoán bệnh vẩy nến

  • Đánh giá lâm sàng

  • Hiếm khi sinh thiết

Chẩn đoán bệnh vẩy nến thường gặp nhất do xuất hiện lâm sàng và phân bố tổn thương.

Chẩn đoán phân biệt bao gồm

Sinh thiết hiếm khi cần thiết; tuy nhiên, sinh thiết có thể được xem xét trong trường hợp khám lâm sàng không điển hình.

Bệnh được xếp loại nhẹ, trung bình hoặc nặng dựa trên diện tích cơ thể bị ảnh hưởng và tổn thương ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Để được coi là nhẹ, thường < 10% bề mặt da bị bệnh. Có nhiều hệ thống tính điểm phức tạp hơn cho mức độ nghiêm trọng của bệnh (ví dụ, Chỉ số Khu vực bị Vẩy nến và Mức độ Nghiêm trọng), nhưng những hệ thống này hữu ích chủ yếu trong nghiên cứu.

Điều trị bệnh vẩy nến

  • Điều trị tại chỗ

  • Liệu pháp ánh sáng cực tím (UV)

  • Liệu pháp toàn thân

Các phương án điều trị rất đa dạng và bao gồm từ các phương pháp điều trị tại chỗ (ví dụ: corticosteroid, chất tương tự vitamin D3, thuốc ức chế calcineurin, tazarotene, roflumilast, tapinarof, chất làm mềm, axit salicylic, nhựa than đá, anthralin) đến liệu pháp tia UV cho đến các phương pháp điều trị đường toàn thân (ví dụ: methotrexate, retinoids đường uống, cyclosporine, sinh học, phân tử nhỏ).

Điều trị tại chỗ

Corticosteroid thường được sử dụng tại chỗ nhưng có thể được tiêm vào các tổn thương nhỏ hoặc khó trị. (THẬN TRỌNG: Corticosteroid toàn thân có thể chỉ định trong đợt bùng phát trầm trọng hoặc bệnh vẩy nến mụn mủ và không nên dùng để điều trị bệnh vẩy nến.) Corticosteroid tại chỗ được sử dụng hai lần mỗi ngày. Corticosteroid có hiệu quả nhất khi sử dụng qua đêm dưới lớp phủ polyethylene hoặc kết hợp vào băng; kem corticosteroid được sử dụng mà không gây tắc nghẽn trong ngày. Corticosteroid mạnh được lựa chọn theo mức độ bệnh.

Khi các tổn thương giảm, nên giảm thời sử dụng và giảm liều corticosteroid để giảm thiểu teo tại chỗ, rạn da và giãn mạch. Lý tưởng nhất là sau khoảng 2 đến 3 tuần, nên thay thế corticosteroid bằng chất làm mềm, chất tương tự vitamin D3 hoặc thuốc ức chế calcineurin trong 1 đến 2 tuần (là một khoảng thời gian nghỉ); việc thay thế này hạn chế liều lượng corticosteroid, giảm nguy cơ bị các tác dụng bất lợi của corticosteroid tại chỗ (ví dụ: teo da, giãn mao mạch, dễ bầm tím, nổi vân) và ngăn ngừa miễn dịch nhanh (giảm đáp ứng với một loại thuốc sau khi dùng liều tiếp theo). Việc sử dụng corticosteroid tại chỗ có thể tốn kém vì cần một lượng lớn (khoảng 1 oz hoặc 30g) cho mỗi lần sử dụng khi bề mặt cơ thể lớn bị ảnh hưởng. Corticosteroid tại chỗ được áp dụng trong thời gian dài trên diện tích lớn có thể gây ra các phản ứng có tính hệ thống và làm trầm trọng thêm bệnh vẩy nến. Đối với các tổn thương nhỏ, dày, khu trú, hoặc tái phát, corticosteroid mạnh được sử dụng với băng bịt hoặc băng flurandrenolit; băng qua đêm và thay băng vào buổi sáng. Tái phát sau khi ngừng điều trị bằng corticosteroid tại chỗ thường nhanh hơn so với các thuốc khác.

Các chất tương tự vitamin D3 (ví dụ: calcipotriol [calcipotriene], calcitriol) là các thuốc bôi tại chỗ gây tăng sinh và biệt hóa tế bào sừng bình thường; các chất này có thể được sử dụng một mình hoặc phối hợp với corticosteroid tại chỗ. Một số bác sĩ lâm sàng chỉ định cho bệnh nhân dùng calcipotriol vào các ngày trong tuần và corticosteroid vào cuối tuần.

Chất ức chế Calcineurin (ví dụ, tacrolimus, pimecrolimus) có sẵn ở dạng thuốc bôi tại chỗ và nói chung dung nạp tốt. Thuốc không hiệu quả như corticosteroid nhưng có thể tránh được các biến chứng của corticosteroid khi điều trị bệnh vẩy nến trên mặt và vùng kẽ. Không rõ liệu thuốc có làm tăng nguy cơ mắc u lymphoma và ung thư da hay không.

Tazarotene là một retinoid tại chỗ. Chất này kém hiệu quả hơn corticosteroid khi đơn trị liệu nhưng là một liệu pháp bổ sung hữu ích vì tác dụng tiêu sừng của nó. Chất này thường được sử dụng trên các mảng vẩy nến dày hơn có thể xuất hiện trên thân và tứ chi nhưng cũng có thể được sử dụng trên mặt.

Roflumilast là thuốc ức chế phosphodiesterase-4 (PDE-4) tại chỗ. Thuốc này đặc biệt hữu ích như một phương pháp điều trị giữ corticosteroid cho các vùng mặt và vùng kẽ (ví dụ: mông, bẹn, nách).

Tapinarof là thuốc chủ vận thụ thể aryl hydrocarbon (AhR) tại chỗ. Thuốc cũng hữu ích dưới dạng liệu pháp giữ corticosteroid trên các vùng da mặt và vùng kẽ.

Các phương pháp điều trị tại chỗ bổ trợ khác bao gồm chất làm mềm, axit salicylic, nhựa than đá và anthralin:

  • Dưỡng ẩm bao gồm các loại kem làm mềm, thuốc mỡ, xăng dầu, parafin, và thậm chí là các loại dầu thực vật đã được hydro hóa (nấu). Chúng làm giảm vẩy và hiệu quả nhất khi sử dụng hai lần mỗi ngày và ngay sau khi tắm. Các vết thương có thể đỏ hơn khi vẩy giảm hoặc trở nên trong suốt hơn. Chất làm mềm da an toàn và thường được sử dụng như một liệu pháp bổ sung trong điều trị bệnh vẩy nến thể mảng bám ở mức độ nhẹ đến trung bình.

  • Axit salicylic là một chất làm bạt sừng giúp làm mềm vẩy, tạo điều kiện cho việc loại bỏ chúng, và làm tăng sự hấp thu các chất tác dụng khác. Nó đặc biệt hữu ích như một thành phần của phương pháp điều trị da đầu; vẩy da đầu có thể khá dày.

  • Than đá các chế phẩm chống viêm và làm giảm quá trình tăng sinh tế bào sừng, chưa rõ cơ chế. Thuốc mỡ hoặc dung dịch thường được dùng vào ban đêm và rửa sạch vào buổi sáng. Các sản phẩm nhựa than có thể được sử dụng phối hợp với corticosteroid tại chỗ hoặc tiếp xúc với ánh sáng UVB dải rộng tự nhiên hoặc nhân tạo (280 đến 320 nm) theo mức tăng dần (phác đồ Goeckerman). Dầu gội nên được để lại trong 5 đến 10 phút và sau đó rửa sạch.

  • Anthralin là một thuốc chống tăng sinh, kháng viêm. Cơ chế hoạt động của nó không rõ. Liều hiệu quả là kem 0,1% hoặc tăng lên thuốc mỡ 1% khi dung nạp. Anthralin có thể gây kích ứng và cần phải thận trọng khi sử dụng ở những vùng có nếp nhăn; nó cũng làm ố màu. Có thể tránh kích ứng và làm ố màu bằng cách rửa sạch anthralin sau khi sử dụng 20 đến 30 phút. Sử dụng chế phẩm bao bọc liposome cũng có thể tránh được một số nhược điểm của anthralin.

Với khả năng sẵn có và tiện lợi của các chất khác, nhựa than đá và anthralin đang được sử dụng ít thường xuyên hơn.

Quang trị liệu

Liệu pháp ánh sáng tia cực tím thường được sử dụng ở những bệnh nhân bị bệnh vẩy nến lan rộng; tuy nhiên, việc sử dụng nó đang giảm dần do có sẵn nhiều liệu pháp toàn thân hiệu quả khác nhau. Cơ chế tác dụng chưa rõ, mặc dù ánh sáng UVB làm giảm sự tổng hợp DNA và có thể gây ức chế miễn dịch nhẹ. Trong PUVA, uống methoxypsoralen, một chất nhạy cảm ánh sáng, tiếp theo là tiếp xúc với ánh sáng UVA bước sóng dài (330 đến 360 nm). PUVA có tác dụng chống lan nhanh và cũng có thể giúp bình thường hoá sự biệt hóa của tế bào sừng. Liều lượng ánh sáng bắt đầu thấp và tăng lên khi dung nạp. Có thể xảy ra bỏng nặng nếu liều thuốc hoặc tia UVA quá cao.

Mặc dù việc điều trị ít phức tạp hơn so với các phương pháp điều trị tại chỗ và có thể thuyên giảm kéo dài vài tháng, nhưng việc điều trị lặp đi lặp lại có thể làm tăng tỷ lệ mắc bệnh ung thư da và ung thư tế bào hắc tố do tia cực tím. Khi sử dụng với retinoid đường uống ánh sáng tia cực tím chiếu ít hơn (gọi là chế độ tái PUVA). Ánh sáng NBUVB (311-312 nm), được sử dụng mà không có psoralen, tương tự như hiệu quả đối với PUVA. Trị liệu bằng laser Excimer là một loại trị liệu bằng ánh sáng sử dụng laser 308 nm nhắm vào các mảng vẩy nến tiêu điểm.

Liệu pháp toàn thân

Methotrexate uống điều trị hiệu quả cho bệnh vẩy nến nặng, đặc biệt là viêm khớp vẩy nến nặng hoặc bệnh đỏ da toàn thân vẩy nến hoặc mụn mủ lan rộng không đáp ứng với các biện pháp tại chỗ hoặc liệu pháp ánh sáng (UVB hẹp hoặc PUVA). Methotrexate dường như cản trở sự tăng sinh nhanh chóng của tế bào biểu bì. Huyết học, chức năng thận và gan cần được theo dõi. Phác đồ dùng thuốc khác nhau, vì vậy chỉ những bác sĩ có kinh nghiệm trong việc sử dụng thuốc này để điều trị bệnh vẩy nến mới nên thực hiện liệu pháp methotrexate.

Cyclosporine có thể được sử dụng cho bệnh vẩy nến nặng. Nó nên được giới hạn với các đợt điều trị vài tháng (ít khi, đến 1 năm) và xen kẽ với các liệu pháp khác. Ảnh hưởng của nó đối với thận và các tác động tiềm tàng trên hệ miễn dịch lâu dài làm ngăn cản việc sử dụng thuốc tự do.

Mycophenolate mofetil có thể là một lựa chọn thay thế cho những bệnh nhân không đáp ứng với methotrexate hoặc cyclosporine hoặc những người bị ngộ độc thuốc.

Retinoids đường toàn thân (ví dụ: acitretin, isotretinoin) có thể có hiệu quả đối với các trường hợp bệnh vẩy nến nặng và dai dẳng, bệnh vẩy nến thể mụn mủ (trong đó isotretinoin có thể được ưu tiên) và bệnh vẩy nến thể lòng bàn tay-lòng bàn chân tăng sừng. Do khả năng gây quái thai và khả năng tồn lưu acitretin lâu dài trong cơ thể, những phụ nữ sử dụng thuốc này không được mang thai và cần phải được cảnh báo không mang thai trong ít nhất 3 năm sau khi kết thúc điều trị. Hạn chế mang thai cũng áp dụng đối với isotretinoin, nhưng thuốc này không bị giữ lại trong cơ thể quá 1 tháng. Điều trị kéo dài có thể gây ra loãng xương tự phát lan tỏa (DISH).

Một số loại thuốc sinh học (kháng thể đơn dòng trị liệu) đã cho thấy hiệu quả trong điều trị bệnh vẩy nến thể mảng từ trung bình đến nặng (1, 2):

  • Thuốc ức chế TNF: Etanercept, adalimumab, Infliximab và certolizumab pegol (không qua nhau thai)

  • Thuốc ức chế Interleukin (IL)-23: Tildrakizumab, risankizumab, guselkumab và ustekinumab (nhắm đích cả IL-12 và IL-23)

  • Thuốc ức chế IL-17: Secukinumab, ixekizumab và brodalumab

Apremilast, một thuốc ức chế PDE-4, là một loại thuốc phân tử nhỏ dùng đường uống để điều trị bệnh vẩy nến thể mảng; tuy nhiên, dữ liệu hậu mãi cho thấy nó kém hiệu quả hơn sinh học (3).

Deucravacitinib là một thuốc phân tử nhỏ dùng đường uống có tác dụng ức chế tyrosine kinase 2 (thuộc họ Janus kinase) và đã cho thấy hiệu quả trong điều trị bệnh vẩy nến (4, 5). Tofacitinib, một thuốc ức chế Janus kinase đôi khi được sử dụng để điều trị viêm khớp vẩy nến, cũng có hiệu quả đối với bệnh vẩy nến giới hạn ở da (6); tuy nhiên, cần nhiều nghiên cứu hơn trước khi sử dụng thuốc này thường xuyên cho chỉ định này.

Spesolimab là mộ thuốc ức chế IL-36 có thể được sử dụng để điều trị bệnh vẩy nến thể mụn mủ toàn thân.

Các loại thuốc tương tự sinh học đang được phát triển và được sử dụng cho các kháng thể đơn dòng trị liệu khác nhau khi bằng sáng chế của các thuốc này hết hạn (7). Những loại thuốc này có hiệu quả và độc tính rất giống với các sản phẩm tham chiếu; hơi có các khác biệt về các phần không có ý nghĩa lâm sàng.

Các thuốc ức chế miễn dịch khác (ví dụ, hydroxyurea, 6-thioguanine, mycophenolate mofetil) có độ an toàn thấp và được dành riêng cho bệnh vẩy nến nặng, khó trị. Efalizumab không còn được bán ở Hoa Kỳ hoặc Canada do tăng nguy cơ mắc bệnh não chất trắng đa ổ tiến triển.

Lựa chọn trị liệu

Việc lựa chọn các thuốc và phối hợp cụ thể đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ với bệnh nhân, luôn cân nhắc những tác dụng không mong muốn của các phương pháp điều trị. Không có sự kết hợp lý tưởng hay chuỗi các phương pháp, nhưng việc điều trị nên càng đơn giản càng tốt. Đơn trị liệu được ưa thích, nhưng liệu pháp phối hợp là điều trị tiêu chuẩn. Lựa chọn điều trị bậc một cho bệnh vẩy nến bao gồm corticosteroid tại chỗ và dẫn xuất vitamin D3 (liệu pháp đơn trị hoặc kết hợp).

Liệu pháp quay vòng điều trị liên quan đến việc thay thế một liệu pháp này cho một liệu pháp khác sau 1 đến 2 năm để giảm các tác dụng phụ do sử dụng lâu dài và để tránh tình trạng kháng thuốc. Điều trị tuần tự đề cập đến việc sử dụng ban đầu các tác nhân mạnh (ví dụ, cyclosporine) để nhanh chóng đạt được kiểm soát sau đó sử dụng các tác nhân có tính an toàn hơn. Thuốc ức chế miễn dịch đạt được mức làm sạch hoặc gần làm sạch các tổn thương thường xuyên hơn methotrexate hoặc UVB dải hẹp.

Bệnh vẩy nến thể mảng nhẹ có thể được điều trị bằng chất làm mềm, thuốc tiêu sừng, hắc ín, corticosteroid tại chỗ, thuốc bôi tại chỗ giữ corticosteroid (ví dụ: thuốc ức chế calcineurin, thuốc ức chế PDE-4, tapinarof), chất tương tự vitamin D3, hoặc anthralin đơn độc hoặc phối hợp. Tiếp xúc vừa phải với ánh sáng mặt trời có lợi, nhưng cháy nắng có thể làm tình trạng trầm trọng hơn.

Bệnh vẩy nến thể mảng trung bình tới nặng nên được điều trị bằng các tác nhân tại chỗ và cả liệu pháp quang học hoặc các thuốc toàn thân. Thuốc ức chế miễn dịch được sử dụng cho bệnh từ trung bình đến nặng không đáp ứng với các thuốc khác.

Vẩy nến thể mảng da đầu rất khó để điều trị bởi vì chúng kháng với các liệu pháp điều trị toàn thân, và bởi vì tóc hạn chế thuốc bôi tại chỗ và bong vẩy và che chắn da khỏi tia cực tím. Huyền phù giữ axit salicylic10% trong dầu khoáng có thể được bôi vào da đầu trước khi đi ngủ bằng tay hoặc bằng bàn chải đánh răng, được che bằng mũ tắm (để tăng cường sự xâm nhập và tránh sự dây ra), và rửa sạch vào sáng hôm sau với một dầu gội đầu có hắc ín. Các dung dịch corticosteroid phù hợp về tính thẩm mỹ hơn có thể được bôi vào da đầu trong ngày. Các phương pháp điều trị này được tiếp tục cho đến khi đạt đáp ứng lâm sàng mong muốn.

Trường hợp kháng trị hoặc các mảng da đầu có thể đáp ứng với việc tiêm nội tổn thương tại bề mặt nông bằng triamcinolone được pha loãng với dung dịch muối 2,5 hoặc 5 mg/mL tùy thuộc vào kích thước và mức độ nghiêm trọng của tổn thương. Tiêm có thể gây teo da cục bộ và thường hồi phục được.

Các trường hợp bệnh vẩy nến da đầu nặng có thể cần được điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch đường toàn thân (ví dụ: thuốc sinh học, phân tử nhỏ).

Nhu cầu điều trị đặc biệt cho các phân nhóm của bệnh vẩy nến được mô tả ở trên.

Đối với bệnh viêm khớp do vẩy nến, điều trị bằng liệu pháp toàn thân có vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa tình trạng phá hủy khớp; methotrexate hoặc các thuốc ức chế miễn dịch khác (ví dụ: thuốc ức chế TNF) có thể có hiệu quả.

(Xem thêm American Academy of Dermatology's clinical guideline for psoriasis.)

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Sbidian E, Chaimani A, Garcia-Doval I, et al: Systemic pharmacological treatments for chronic plaque psoriasis: A network meta-analysis. Cochrane Database Syst Rev 12(12):CD011535, 2017 doi: 10.1002/14651858.CD011535.pub2

  2. 2. Armstrong AW, Read C: Pathophysiology, clinical presentation, and treatment of psoriasis: A review. JAMA 323(19):1945–1960, 2020 doi: 10.1001/jama.2020.4006

  3. 3. Armstrong AW, Puig L, Joshi A, et al: Comparison of Biologics and Oral Treatments for Plaque Psoriasis: A Meta-analysis. JAMA Dermatol 156(3):258–269, 2020 doi: 10.1001/jamadermatol.2019.4029

  4. 4. Armstrong AW, Gooderham M, Warren RB, et al: Deucravacitinib versus placebo and apremilast in moderate to severe plaque psoriasis: Efficacy and safety results from the 52-week, randomized, double-blinded, placebo-controlled phase 3 POETYK PSO-1 trial. J Am Acad Dermatol 88(1):29–39, 2023 doi: 10.1016/j.jaad.2022.07.002

  5. 5. Strober B, Thaçi D, Sofen H, et al: Deucravacitinib versus placebo and apremilast in moderate to severe plaque psoriasis: Efficacy and safety results from the 52-week, randomized, double-blinded, phase 3 Program fOr Evaluation of TYK2 inhibitor psoriasis second trial. J Am Acad Dermatol 88(1):40–51, 2023 doi: 10.1016/j.jaad.2022.08.061

  6. 6. Bachelez H, van de Kerkhof PC, Strohal R, et al: Tofacitinib versus etanercept or placebo in moderate-to-severe chronic plaque psoriasis: A phase 3 randomised non-inferiority trial. Lancet 386(9993):552-561, 2015 doi: 10.1016/S0140-6736(14)62113-9

  7. 7. Ruda RC, Kelly KA, Feldman SR: Real-world outcomes following switching from anti-TNF reference products to biosimilars for the treatment of psoriasis. J Dermatolog Treat 34(1):2140569, 2023 doi: 10.1080/09546634.2022.2140569

Những điểm chính

  • Bệnh vẩy nến là một rối loạn viêm phổ biến ảnh hưởng đến da có thành phần di truyền và một số tác nhân (ví dụ: chấn thương, nhiễm trùng, một số loại thuốc).

  • Các phát hiện trên da hay gặp nhất bao gồm sẩn hoặc mảng đỏ, hình vòng đa cung rõ được bao phủ bởi các vẩy bạc trong vẩy nến thể mảng, nhưng các tổn thương khác nhau giữa các thể ít gặp của vẩy nến.

  • Bệnh viêm khớp vẩy nến phát triển từ 5 đến 30% bệnh nhân và có thể gây ra sự hủy hoại và tàn tật.

  • Chẩn đoán dựa trên sự xuất hiện và phân bố tổn thương.

  • Xem xét các phương pháp điều trị tại chỗ (ví dụ: chất làm mềm, axit salicylic, chế phẩm nhựa than đá, anthralin, corticosteroid, chất tương tự vitamin D3, thuốc ức chế calcineurin, thuốc ức chế PDE-4, tapinarof, tazarotene), đặc biệt đối với bệnh nhẹ.

  • Đối với bệnh vẩy nến từ trung bình đến nặng, hãy xem xét các phương pháp điều trị đường toàn thân như retinoids, methotrexate, cyclosporine, thuốc sinh học (ví dụ: thuốc ức chế TNF) và các phân tử nhỏ (ví dụ: deucravacitinib).

  • Liệu pháp ánh sáng tia cực tím (UV) có thể là phương pháp thay thế cho những bệnh nhân chống lại tình trạng ức chế miễn dịch đường toàn thân.

Thông tin thêm

Sau đây là các tài nguyên tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của các tài nguyên này.

  1. Psoriasis Area and Severity Index (PASI): An online calculator to determine a patient's PASI score

  2. American Academy of Dermatology: Psoriasis Clinical Guidelines: Joint guidelines from the American Academy of Dermatology and the National Psoriasis Foundation

  3. National Psoriasis Foundation: A resource providing information about treatments and community support