Toan lactic

TheoJames L. Lewis III, MD, Brookwood Baptist Health and Saint Vincent’s Ascension Health, Birmingham
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 07 2023

Toan lactic là nhiễm toan chuyển hóa tăng khoảng trống anion, do tăng lactate trong máu. Nguyên nhân do sản xuất quá nhiều lactate, giảm chuyển hóa của lactat, hoặc cả hai.

(Xem thêm Nhiễm toan chuyển hóa, Điều hòa axit-bazơRối loạn axit-bazơ.)

Lactate là một sản phẩm phụ bình thường từ quá trình trao đổi chất của glucose và amino axit. Có 2 loại toan lactic chính:

  • Nhiễm toan lactic loại A

  • Nhiễm toan lactic loại B

Loại thứ ba, nhiễm toan D-lactic (bệnh não D-lactate) là một dạng nhiễm toan lactic bất thường.

Nhiễm toan lactic loại A

Nhiễm toan lactic loại A, dạng nghiêm trọng nhất, xảy ra khi axit lactic bị sản sinh quá mức trong mô thiếu máu cục bộ – là sản phẩm phụ của quá trình tạo ATP (adenosine triphosphate) kỵ khí trong quá trình thiếu oxy. Sản sinh quá mức thường xảy ra trong quá trình giảm tưới máu toàn bộ mô trong sốc giảm thể tích, sốc tim hoặc sốc nhiễm trùng và trở nên trầm trọng hơn do giảm chuyển hóa lactate ở gan được tưới máu kém. Nó còn xảy ra trong bệnh lý phổi gây thiếu oxy, những bệnh lý liên quan hemoglobin.

Nhiễm toan lactic loại B

Toan lactic loại B xảy ra khi các mô được tưới máu bình thường (sinh ATP) và ít nguy hiểm hơn.

Các nguyên nhân bao gồm tình trạng hạ oxy mô cục bộ (ví dụ như sử dụng cơ quá mức khi gắng sức, co giật, run do hạ thân nhiệt), một số tình trạng toàn thân và bẩm sinh, ung thư và uống phải một số loại thuốc hoặc chất độc (xem bảng Nguyên nhân gây nhiễm toan chuyển hóa). Các loại thuốc bao gồm thuốc ức chế men sao chép ngược nucleoside và biguanides metforminphenformin (mặc dù không có sẵn phenformin). Chuyển hóa có thể bị giảm do suy gan hoặc thiếu hụt thiamin.

Nhiễm toan D-lactic

Nhiễm axit D-Lactic là một dạng nhiễm toan lactic bất thường trong đó axit D-lactic được sản xuất dư thừa. Axit D-lactic thường được sản sinh với số lượng nhỏ dưới dạng sản phẩm của quá trình chuyển hóa carbohydrate bởi vi khuẩn trong đại tràng. Ở những bệnh nhân được phẫu thuật bắc cầu hỗng tràng hoặc cắt bỏ ruột và dẫn đến hội chứng ruột ngắn, axit D-lactic dư thừa được sản sinh và được hấp thu một cách có hệ thống. Nó vẫn tồn tại trong tuần hoàn vì lactate dehydrogenase của người chỉ có thể chuyển hóa L-lactate, nhưng về mặt hóa học, nó tương tự như L-lactate và có tác dụng tương tự đối với cân bằng axit-bazơ.

Các triệu chứng và dấu hiệu của nhiễm toan axit lactic

Các triệu chứng và dấu hiệu của nhiễm toan lactic bị chi phối bởi những triệu chứng của rối loạn cơ bản (ví dụ: sốc ở loại A, ăn phải chất độc ở loại B).

Các triệu chứng thần kinh, bao gồm lú lẫn, thất điều, và nói ngọng, xảy ra sau khi ăn nhiều carbohydrate và là đặc trưng của nhiễm toan lactic.

Chẩn đoán nhiễm toan axit lactic

  • Khí máu động mạch, điện giải đồ

  • Tính khoảng trống anion và khoảng delta

  • Nồng độ lactate máu

Xác định toan lactic loại A hay loại B giống như các trường hợp toan chuyển hóa khác. Chẩn đoán yêu cầu độ pH máu < 7,35 và lactate > 45 đến 54 mg/dL (> 5 đến 6 mmol/L). Thay đổi rất ít nồng độ lactate và pH nghĩ đến tăng lactate máu.

Trong toan D-lactic, khoảng trống anion thấp hơn dự kiến vì giảm bicarbonate (HCO3), và có thể có khoảng trống thẩm thấu trong nước tiểu (độ chênh lệch giữa áp suất thẩm thấu nước tiểu ước tính và đo được). Các xét nghiệm lactate ở phòng thí nghiệm không nhạy với D-lactate. Luôn có và đôi khi cần nồng độ D-lactate cụ thể để làm rõ nguyên nhân gây nhiễm toan ở những bệnh nhân có nhiều nguyên nhân tiềm ẩn, bao gồm cả các vấn đề về đường ruột.

Công cụ tính toán lâm sàng

Điều trị nhiễm toan axit lactic

  • Điều trị nguyên nhân

Điều trị các toan lactic loại A và B tương tự như điều trị toan chuyển hoá khác.

Điều trị nguyên nhân là điều tối quan trọng. Trong điều trị tưới máu mô không đầy đủ, nên bỏ qua máy ép vì chúng có thể làm nặng thêm tình trạng thiếu máu cục bộ. Bicarbonate có khả năng gây nguy hiểm đối với tình trạng toan tăng khoảng trống anion, nhưng có thể được xem xét khi pH < 7,00, với độ pH mục tiêu là ≤ 7,10.

Trong toan D-lactic, điều trị bằng truyền dịch đường tĩnh mạch, hạn chế carbohydrate, và đôi khi cần thuốc kháng sinh đường uống (ví dụ, metronidazole) đối với hội chứng ruột ngắn và bicarbonate đối với nhiễm toan nặng.

Những điểm chính

  • Có 2 loại toan lactic chính, loại A và loại B; loại A nghiêm trọng hơn vì nó gây ra bởi thiếu máu cục bộ.

  • Chẩn đoán yêu cầu độ pH trong máu < 7,35 và mức lactate huyết thanh > 45 đến 54 mg/dL (> 5 đến 6 mmol/L).

  • Tránh máy ép tim khi có thể đối với toan lactic loại A và B vì làm nặng thêm tình trạng thiếu máu mô.