U trung biểu mô

TheoAbigail R. Lara, MD, University of Colorado
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 10 2023

Ung thư trung biểu mô màng phổi, một loại ung thư nguyên phát hiếm gặp ở thanh mạc trung biểu mô, là do tiếp xúc với amiăng trong phần lớn các trường hợp. Các triệu chứng bao gồm ho dai dẳng, khó thở, đau ngực và sụt cân không rõ nguyên nhân. Chẩn đoán dựa trên tiền sử phơi nhiễm, chẩn đoán hình ảnh ngực và sinh thiết mô. U trung biểu mô ác tính lan tỏa hầu như luôn gây tử vong.

(Xem thêm Tổng quan về các rối loạn liên quan đến amiăngTổng quan về bệnh phổi do môi trường và nghề nghiệp.)

Thuật ngữ ung thư trung biểu mô (hoặc ung thư trung biểu mô ác tính) thường đề cập đến bệnh ung thư nguyên phát ác tính ở thanh mạc trung biểu mô hầu như luôn xảy ra do tiếp xúc với amiăng.

Amiăng là một họ silicat xuất hiện tự nhiên có đặc tính cấu trúc và chịu nhiệt rất hữu ích trong vật liệu xây dựng và đóng tàu, phanh ô tô và một số vật liệu dệt. Có hai loại amiăng chính: serpentine (bao gồm chrysotile) và amphibole (bao gồm amosite, crocidolite, anthophyllite, tremolite và actinolite).

Amiăng gây ra phần lớn các u trung biểu mô ác tính. Tất cả các loại amiăng đều có thể gây ra ung thư trung biểu mô ác tính, nhưng một số loại sợi có nhiều khả năng gây ra bệnh này hơn những loại khác (sợi amphibole thường có hiệu lực cao hơn serpentine).

Nguy cơ ung thư trung biểu mô ác tính do amiăng phụ thuộc vào liều lượng. Tuy nhiên, các trường hợp được biết là xảy ra ở mức độ phơi nhiễm thấp.

Có một khoảng thời gian tiềm ẩn dài từ 30 năm đến 50 năm kể từ thời điểm phơi nhiễm với amiăng cho đến khi phát triển ung thư trung biểu mô.

Ngoài phơi nhiễm nghề nghiệp, ung thư trung biểu mô ác tính có thể xảy ra do phơi nhiễm cận nghề nghiệp (hoặc mang về nhà) với amiăng cũng như do phơi nhiễm với môi trường. Các địa điểm đáng chú ý nơi phơi nhiễm với amiăng tự nhiên trong môi trường có liên quan đến ung thư trung biểu mô bao gồm erionite ở Cappadocia, Thổ Nhĩ Kỳ, tremolite ở vùng Địa Trung Hải, crocidolite ở vùng nông thôn Tây Nam Trung Quốc, antigorite ở New Caledonia và amiăng Libby ở Libby, Montana.

Bột talc bị nhiễm amiăng là một nguồn phơi nhiễm amiăng không liên quan đến nghề nghiệp khác có liên quan đến ung thư trung biểu mô (1). Các nguyên nhân khác gây ra ung thư trung biểu mô bao gồm các sợi khoáng khác, xạ trị ung thư hạch và vi rút DNA SV40.  Nguy cơ độc lập với hút thuốc lá.

Trong lịch sử, hầu hết các trường hợp ung thư trung biểu mô xảy ra ở nam giới, làm công việc công nghiệp có phơi nhiễm amiang nặng. Vì tỷ lệ mắc ung thư trung biểu mô ở nam giới đã giảm theo thời gian, gánh nặng bệnh tật tương ứng của ung thư trung biểu mô ác tính ở nữ giới đã tăng lên (2, 3).

Có tới 90% số u trung biểu mô ác tính phát sinh ở màng phổi, hầu hết các trường hợp còn lại ở phúc mạc (4). Ít gặp hơn, ung thư trung biểu mô có thể xảy ra ở màng ngoài tim và màng bao âm đạo.

Có hai phân nhóm mô học chính:

  • Dạng biểu mô, chiếm khoảng 60% u trung biểu mô

  • Dạng sarcom

Tài liệu tham khảo chung

  1. 1. Moline J, Bevilacqua K, Alexandri M, Gordon RE. Mesothelioma Associated With the Use of Cosmetic Talc. J Occup Environ Med 2020; 62(1), 11-17. doi:10.1097/JOM.0000000000001723

  2. 2. Mazurek JM, Blackley DJ, Weissman DN. Malignant Mesothelioma Mortality in Women - United States, 1999-2020. MMWR Morb Mortal Wkly Rep 2022; 71(19), 645-649. doi:10.15585/mmwr.mm7119a1

  3. 3. Alpert N, van Gerwen M, Taioli E. Epidemiology of mesothelioma in the 21(st) century in Europe and the United States, 40 years after restricted/banned asbestos use. Transl Lung Cancer Res 2020; 9(Suppl 1), S28-S38. doi:10.21037/tlcr.2019.11.11

  4. 4. Markowitz S. Asbestos-related lung cancer and malignant mesothelioma of the pleura: selected current issues. Semin Respir Crit Care Med 2015; 36(3), 334-346. doi:10.1055/s-0035-1549449

Các triệu chứng và dấu hiệu của u trung biểu mô

Hầu hết bệnh nhân bị khó thở và đau ngực không phải kiểu màng phổi. Tràn dịch màng phổi, thường một bên và xuất huyết, gặp ở 90% số bệnh nhân. Các triệu chứng về toàn thân thường không biểu hiện lúc bệnh nhân khám.

Khối u xâm lấn thành ngực và các cấu trúc lân cận khác có thể gây đau dữ dội, khàn tiếng, khó nuốt, bệnh đám rối cánh tay hoặc cổ trướng.

Chẩn đoán u trung biểu mô

  • Chẩn đoán hình ảnh ngực (chụp X-quang, chụp CT)

  • Tế bào dịch màng phổi hay sinh thiết màng phổi.

Việc chẩn đoán u trung biểu mô màng phổi ác tính có thể là một thách thức.

Chẩn đoán hình ảnh ngực là chìa khóa để chẩn đoán và phân giai đoạn. Những dấu hiệu điển hình trên X-quang ngực là dày màng phổi dạng nốt, tràn dịch màng phổi và mất thể tích lồng ngực. Chụp CT ngực cho phép hiển thị hình ảnh rõ hơn những thay đổi ở màng phổi và mức độ lan rộng của bệnh. Chụp PET-CT và chụp MRI có thể giúp xác định bệnh rộng hơn.

Thường cần phải sinh thiết màng phổi vì tế bào học dịch màng phổi thường không mang tính chẩn đoán. Chẩn đoán u trung biểu mô ác tính dựa trên hình ảnh mô học và nhuộm hóa mô miễn dịch. Tuy nhiên, mô học có thể khiến việc phân biệt ung thư trung biểu mô với các khối u khác trở nên khó khăn.  

Phân giai đoạn được thực hiện bằng chụp CT và MRI ngực. Chụp MRI rất hữu ích trong việc mô tả mức lan rộng của khối u.

Không có khuyến nghị sàng lọc dứt khoát nào về ung thư trung biểu mô để phát hiện bệnh ở giai đoạn đầu ở những người phơi nhiễm với amiăng.

Điều trị u trung biểu mô

  • Chăm sóc hỗ trợ, bao gồm chọc dịch màng phổi, gây dính màng phổi và kiểm soát đau

  • Hóa trị và liệu pháp miễn dịch

U trung biểu mô màng phổi ác tính thường không thể cắt bỏ được tại thời điểm chẩn đoán. Mục tiêu chính của điều trị là chăm sóc hỗ trợ, giảm đau và khó thở.

Phẫu thuật cắt bỏ có thể được xem xét ở những bệnh nhân mắc bệnh ở giai đoạn đầu. Ở những bệnh nặng hơn, các phương pháp phẫu thuật đã được sử dụng để cắt bỏ khối u hoặc cố gắng cắt bỏ tất cả các bệnh đại thể; lợi ích về thời gian sống thêm của những phương pháp này là không rõ ràng.

Xạ trị có thể được sử dụng để giảm số lượng khối u và như một biện pháp giảm nhẹ để giảm các triệu chứng.

Hóa trị (ví dụ: thuốc có platinum cộng với chất chống chuyển hóa folate) cho thấy lợi ích hạn chế và ít ảnh hưởng đến thời gian sống thêm lâu dài. Liệu pháp miễn dịch (ví dụ: thuốc ức chế điểm kiểm soát như là tremelimumab, pembrolizumab, nivolumab, ipilimumab) hoặc phối hợp giữa hóa trị và liệu pháp miễn dịch đã cho thấy một số hứa hẹn trong việc làm chậm sự tiến triển và cải thiện thời gian sống thêm ngắn hạn nhưng lại có tác động hạn chế đến thời gian sống thêm lâu dài (1, 2).

Chăm sóc hỗ trợ bao gồm chọc dịch lồng ngực, gây dính màng phổi và kiểm soát đau. Điều trị tràn dịch màng phổi ác tính, một tình trạng phổ biến, có thể cải thiện triệu chứng và chất lượng cuộc sống. Chăm sóc giảm nhẹ để kiểm soát đau và tối ưu hóa chất lượng cuộc sống là ưu tiên hàng đầu.  

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Banna GL, Signori A, Curioni-Fontecedro A, et al. Systemic therapy for pre-treated malignant mesothelioma: A systematic review, meta-analysis and network meta-analysis of randomised controlled trials. Eur J Cancer 2022; 166, 287-299. doi:10.1016/j.ejca.2022.02.030

  2. 2. Fennell DA, Dulloo S, Harber J. Immunotherapy approaches for malignant pleural mesothelioma. Nat Rev Clin Oncol 2022; 19(9), 573-584. doi:10.1038/s41571-022-00649-7

Tiên lượng về u trung biểu mô

Tiên lượng vẫn còn kém mặc dù các phương pháp điều trị mới như liệu pháp miễn dịch. Thời gian sống thêm trung vị là khoảng 6 tháng đến 18 tháng, tùy thuộc vào giai đoạn và mô học (1). Ung thư trung biểu mô dạng biểu mô, là phân nhóm mô học phổ biến nhất, có liên quan đến thời gian sống thêm trung vị lâu hơn so với ung thư trung biểu mô dạng sarcom.

Ngoài phân nhóm mô học, các chỉ số tiên lượng và chất chỉ điểm sinh học có giá trị tiên lượng hạn chế.

Tài liệu tham khảo về tiên lượng bệnh

  1. 1. Alpert N, van Gerwen M, Taioli E. Epidemiology of mesothelioma in the 21(st) century in Europe and the United States, 40 years after restricted/banned asbestos use. Transl Lung Cancer Res 2020; 9(Suppl 1), S28-S38. doi:10.21037/tlcr.2019.11.11

Những điểm chính

  • U trung biểu mô ác tính là một loại ung thư hiếm gặp, hung hãn và hầu như luôn gây tử vong, với tỷ lệ có thời gian sống thêm 5 năm là khoảng 10%. 

  • Phần lớn các u trung biểu mô ác tính có liên quan đến phơi nhiễm amiăng, có thể là nghề nghiệp, cận nghề nghiệp hoặc từ các nguồn môi trường. 

  • Điều trị tập trung vào chăm sóc hỗ trợ. Mặc dù liệu pháp miễn dịch đã cho thấy nhiều hứa hẹn nhưng tiên lượng vẫn còn kém.