Kính áp tròng

TheoDeepinder K. Dhaliwal, MD, L.Ac, University of Pittsburgh School of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 01 2022

Kính áp tròng cung cấp tầm nhìn ngoại vi tốt hơn kính đeo mắt và có thể được kê đơn để điều chỉnh những điều sau đây:

Thấu kính mềm hoặc cứng được sử dụng để chỉnh cận và loạn thị. Các kính áp tròng mềm Toric (có độ cong khác nhau được đúc khuôn vào bề mặt thấu kính phía trước) hoặc các kính áp tròng cứng được sử dụng để sửa loạn thị; kính áp tròng rất hiệu quả trong nhiều trường hợp nhưng đòi hỏi kỹ thuật đặt kính tốt.

Kính áp tròng cũng có thể chỉnh được lão thị. Có một hướng tiếp cận gọi là monovision (thị giác một mắt) trong đó mắt không chủ đạo được chỉnh kính nhìn gần (đọc) và mắt chủ đạo được chỉnh kính nhìn xa. Sử dụng các loại kính áp tròng cứng và mềm đơn tiêu cự và đa tiêu cự cũng có thể thành công nhưng mất thời gian chỉnh (fit) kính vì đòi hỏi mức độ tương đồng giữa hai mắt rất cao.

Không phải kính áp tròng cứng hoặc mềm nào cũng có thể bảo vệ mắt khỏi chấn thương đụng dập hoặc chấn thương xuyên như kính gọng.

Chăm sóc và Biến chứng của Kính áp tròng

Phải tuân thủ nghiêm ngặt hướng dẫn vệ sinh và xử lý kính. Vệ sinh kính áp tròng kém có thể dẫn đến nhiễm trùng giác mạc hoặc viêm dai dẳng.

Kính áp tròng đôi khi gây ra biến đổi bề mặt giác mạc không đau.

Kính áp tròng có thể gây đau khi

  • Trợt biểu mô (xem Mòn giác mạc và Dị vật); đỏ mắt, và nhuộm fluorescein dương tính.

  • Kính không vừa với mắt (ví dụ, quá chặt, quá lỏng, định tâm kém).

  • Độ ẩm không đảm bảo để giữa kính nổi trên bề mặt giác mạc.

  • Sử dụng kính trong một môi trường không lý tưởng (ví dụ, thiếu Oxygen, khói, gió).

  • Đặt hoặc tháo kính sai cách.

  • Một hạt dị vật nhỏ (ví dụ như bụi bồ hóng, bụi) bị kẹt giữa kính và giác mạc.

  • Kính đã qua sử dụng trong một thời gian dài (hội chứng lạm dụng kính).

Hội chứng mặc quần áo gây mẩn đỏ, sợ ánh sáng và chảy nước mắt. Quá trình lành tự nhiên có thể xảy ra trong một ngày hoặc lâu hơn nếu không đeo thấu kính. Trong một số trường hợp, cần phải điều trị tích cực (ví dụ kháng sinh nước hoặc mỡ tra). Giãn đồng tử có thể gây lóa mắt. Giãn đồng tử bằng liệt thể mi tạm thời (cơ bị viêm cử động sẽ gây đau). Trong hội chứng mặc quá nhiều hoặc bất kỳ tình trạng nào khác mà cơn đau không nhanh chóng giảm đi khi tháo thấu kính ra, nên hỏi ý kiến bác sĩ nhãn khoa hoặc bác sĩ đo thị lực trước khi đeo lại thấu kính.

Các yếu tố nguy cơ đối với viêm giác mạc do kính áp tròng gồm:

  • Vệ sinh kính kém

  • Đeo qua đêm hoặc đeo kéo dài

  • Sử dụng nước máy vệ sinh kính

  • Có tổn thương bề mặt nhãn cầu (ví dụ, khô, giảm cảm giác giác mạc)

Nhiễm trùng cần được điều trị kịp thời bởi bác sĩ nhãn khoa.

Loét giác mạc

Loét giác mạc là một nhiễm trùng đe dọa thị lực của giác mạc, nghi ngờ khi người đeo kính áp tròng có đau mắt dữ dội (cả cảm giác dị vật và đau), thị lực giảm, đỏ, chói sáng, và chảy nước mắt. Sử dụng kính áp tròng làm tăng nguy cơ loét giác mạc. Nguy cơ này tăng lên khoảng 15 lần nếu đeo kính áp tròng qua đêm. Viêm loét giác mạc có thể là do vi khuẩn, vi rút, nấm, hoặc a míp.

Chẩn đoán bằng khám sinh hiển vi và nhuộm huỳnh quang. Hiện tượng khuyết biểu mô giác mạc (bắt màu với fluorescein) và thâm nhiễm giác mạc (bạch cầu trong nhu mô giác mạc). Đôi khi, khuyết biểu mô giác mạc đủ lớn và đặc đến mức có thể quan sát bằng kính phóng đại cầm tay hoặc bằng mắt thường nếu đó là chấm trắng trên giác mạc. Cần chỉ định xét nghiệm nuôi cấy và phết tiêu bản của thâm nhiễm giác mạc, kính áp tròng, hộp đựng kính áp tròng.

Dừng sử dụng kính áp tròng. Thuốc kháng sinh tra mắt được chỉ định theo kinh nghiệm để bao phủ các nhiễm khuẩn có thể gặp. Bắt đầu với kháng sinh phổ rộng, sử dụng fluoroquinolone tra mỗi 15 đến 60 phút trong suốt 24 đến 72 giờ đầu tiên, sau đó giãn dần khoảng cách giữa các lần tra. Các thuốc tra kháng sinh khác tại mắt như cefazolin, vancomycin, hoặc tobramycin đậm đặc, được sử dụng nếu vết loét lớn, sâu, hoặc gần với trục thị giác. Dựa trên kết quả nuôi cấy, có thể thay đổi hoặc dừng điều trị kháng sinh. Các trường hợp bị bỏ sót có thể đáp ứng kém hoặc không đáp ứng với tất cả các loại điều trị và có thể dẫn đến mất thị lực trầm trọng.

Kính áp tròng giác mạc cứng

Kính áp tròng cứng có khả năng tái tạo lại hình dạng giác mạc so với kính áp tròng mềm và giúp cải thiện thị lực ổn định cho những người có loạn thị hoặc bề mặt giác mạc không đều. Các loại kính áp tròng cứng cũ làm từ polymethyl methacrylate đã được thay thế bằng kính áp tròng cứng thấm khí (GPCL) làm từ fluorocarbon và polymethyl methacrylate admixtures. GPCL có đường kính từ 6,5 đến 10 mm và bao phủ một phần của giác mạc, nổi trên lớp nước mắt trên nó.

Kính áp tròng cứng có thể cải thiện thị lực ở những người có cận thị, viễn thị và loạn thị. Kính áp tròng cứng cũng có thể gây ra các bất thường của giác mạc như bệnh giác mạc chóp. Trong hầu hết các trường hợp, bệnh nhân giác mạc chóp có thị lực với kính áp tròng cứng tốt hơn kính gọng.

GPCL có thể được thiết kế phù hợp với mắt một cách chính xác. Để có thể đeo kính thoải mái, bệnh nhân cần thời gian thích ứng, thường khoảng 4 đến 7 ngày. Trong thời gian này, người sử dụng dần dần tăng số giờ đeo kính mỗi ngày. Quan trọng là bệnh nhân không đau khi đeo kính. Đau là biểu hiện của kính áp tròng không vừa (fit) hoặc kích thích giác mạc. Người mặc có thể có (< 2 giờ) nhìn mờ (mờ cảnh tượng) khi đeo kính sau khi tháo kính áp tròng cứng.

Kính áp tròng mềm ưa nước

Kính áp tròng mềm được làm bằng poly-2-hydroxyethyl methacrylate và các loại nhựa dẻo khác (như silicone hydrogel) và từ 30 đến 79% nước. Kính có đường kính từ 13 đến 15 mm và bao phủ toàn bộ giác mạc. Kính áp tròng mềm thường được thay thế hàng ngày (dùng một lần), mỗi 2 tuần một lần, hoặc hàng tháng.

Kính áp tròng mềm có thể cải thiện thị lực ở những người có cận thị và viễn thị. Do các kính áp tròng mềm để lại vết trên mặt cong giác mạc, các trường hợp loạn thị lớn hơn độ loạn tối thiểu chỉ có thể điều trị bằng kính toric có các mặt cong được đúc khuôn lên mặt trước kính. Làm nặng bờ dưới của kính toric giúp ổn định hướng của trục kính bằng giảm độ xoay của kính.

Kính áp tròng mềm cũng được chỉ định điều trị trợt giác mạc, khuyết biểu mô tái phát hoặc các bệnh lý giác mạc khác (kính áp tròng băng bó hoặc điều trị). Thuốc tra kháng sinh dự phòng (ví dụ, thuốc fluoroquinolon 4 lần một ngày) có thể được sử dụng với kính áp tròng điều trị. Có thể mở rộng chỉ đinh đeo kính áp tròng mềm, đặc biệt là trên bệnh nhân không có thủy tinh thể sau khi phẫu thuật đục thủy tinh thể, nhưng bác sĩ mắt hoặc chuyên viên đo thị lực nên khám lại bệnh nhân thường xuyên. Bệnh nhân nên lau kính một lần/tuần.

Do có kích thước lớn hơn, kính áp tròng mềm không có xu hướng bị đẩy ra từ đầu như kính áp tròng cứng và ít khi có dị vật nằm phía dưới. Nếu đeo kính dễ dàng từ đầu thì sẽ tốn ít thời gian để thích nghi với kính hơn.

Các kính áp tròng mềm có tỉ lệ nhiễm trùng giác mạc cao hơn GPCL, đặc biệt là khi các kính áp tròng mềm được đeo qua đêm. Khi khô, kính áp tròng mềm giòn và dễ vỡ. Kính hấp thụ một lượng ẩm nhất định (dựa vào lượng nước) từ phim nước mắt để duy trì hình dạng và độ dẻo. Do đó, bệnh nhân khô mắt thường thoải mái khi đeo kính có hàm lượng nước thấp.