Tổng quan về Viêm kết mạc

TheoMelvin I. Roat, MD, FACS, Sidney Kimmel Medical College at Thomas Jefferson University
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 04 2023

Viêm kết mạc thường là hậu quả của nhiễm trùng, dị ứng hoặc kích thích. Triệu chứng là cương tụ kết mạc và có tiết tố ở bề mặt nhãn cầu phụ thuộc vào nguyên nhân, cảm giác khó chịu và tình trạng ngứa. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, đôi khi cần phải chỉ định nuôi cấy. Điều trị phụ thuộc vào nguyên nhân và có thể bao gồm kháng sinh tại chỗ, thuốc kháng histamine, thuốc ổn định dưỡng bào và corticosteroid.

Nhiễm trùng kết mạc thường gặp nhất là viêm kết mạc vi rút hoặc là viêm kết mạc vi khuẩn và là có thể lây truyền. Hiếm khi có nhiều căn nguyên phối hợp gây bệnh cùng lúc. Nhiều tác nhân dị ứng có thể gây ra viêm kết mạc dị ứng. Các yếu tố không gây chị ứng kích thích kết mạc có thể là dị vật, gió, bụi, khói, nước hoa, hóa chất bay hơi và các dạng ô nhiễm không khí và phơi nhiễm với tia tử ngoại cường độ cao hoặc bị chói mắt do ánh mặt trời phản chiếu từ tuyết.

Viêm kết mạc thường rất cấp tính, nhưng cả hai nguyên nhân nhiễm trùng và dị ứng đều có thể mạn tính. Các điều kiện bổ sung gây viêm kết mạc mạn tính bao gồm ngửa mi, quặm, viêm bờ mi, và viêm túi lệ mạn tính.

Triệu chứng và Dấu hiệu viêm kết mạc

Bất kỳ nguồn viêm nào cũng có thể gây chảy nước mắt hoặc cương tụ kết mạc lan tỏa. Hút thuốc có thể khiến mắt có dử ban đêm. Nhiều dử sẽ gây nhìn mờ nhưng khi được lau sạch thì sẽ nhìn lại bình thường.

Ngứa và chảy nước mắt là triệu chứng chủ yếu trong viêm kết mạc dị ứng. Phù nề kết mạc và nhú tăng sản cũng gợi ý viêm kết mạc dị ứng. Sự kích thích hoặc cảm giác dị vật, sợ ánh sáng và tiết tố trong gợi ý truyền nhiễm viêm kết mạc vi rút; tiết tố mủ gợi ý viêm kết mạc vi khuẩn. Đau mắt dữ dội bất thường gợi ý viêm củng mạc.

Chẩn đoán viêm kết mạc

  • Đánh giá lâm sàng

  • Đôi khi phải nuôi cấy

Thông thường, chẩn đoán viêm kết mạc được thực hiện dựa trên bệnh sử và khám (xem bảng Các đặc điểm phân biệt trong viêm kết mạc cấp tính), thường bao gồm kiểm tra bằng đèn khe có nhuộm huỳnh quang giác mạc và nếu nghi ngờ bệnh tăng nhãn áp thì đo nhãn áp. Để ngăn ngừa lây nhiễm sang các bệnh nhân và nhân viên khác, khử trùng tỉ mỉ các thiết bị tiếp xúc với mắt đặc biệt quan trọng sau khi khám bệnh nhân có thể bị viêm kết mạc.

Các bệnh khác có thể gây ra mắt đỏ. Đau sâu ở mắt bị bệnh khi ánh sáng rọi vào mắt lành (sợ ánh sáng thực sự) không gặp trong viêm kết mạc đơn thuần và gợi ý bệnh lý của giác mạc hoặc bán phần trước. Cương tụ kết mạc rìa (đôi lúc được mô tả là cương tụ thể mi) là các mạch máu sâu, mảnh, thẳng, giãn tỏa theo hình nan hoa ra ngoài vùng rìa 1 đến 3 mm và không có cương tụ ở kết mạc nhãn cầu và kết mạc sụn mi. Xả mật xảy ra với viêm màng bồ đào, bệnh tăng nhãn áp cấp tính, và một số loại viêm giác mạc (xem Bệnh lý giác mạc) nhưng không phải với viêm kết mạc không biến chứng.

Ngọc trai & cạm bẫy

  • Nghi ngờ nguyên nhân khác của mắt đỏ (ví dụ, viêm màng bồ đào, glôcôm, viêm giác mạc) nếu bệnh nhân có thực sự sợ ánh sáng, mất thị lực, hoặc cương tụ rùa và không có chảy nước mắt cũng như tiết tố nhiều.

Nguyên nhân của viêm kết mạc được gợi ý bằng các phát hiện lâm sàng. Tuy nhiên, nuôi cấy được chỉ định cho những bệnh nhân có triệu chứng nặng, suy giảm miễn dịch, mắt dễ bị tổn thương (ví dụ: sau ghép giác mạc, lồi mắt do bệnh Graves) hoặc đáp ứng kém với điều trị ban đầu.

Rất khó phân biệt trên lâm sàng viêm kết mạc do vi khuẩn và vi rút. Tuy nhiên, nếu bệnh sử và khám lâm sàng gợi ý nhiều tới viêm kết mạc virus thì hoãn dùng kháng sinh là phù hợp. Có thể kê kháng sinh sau nếu bệnh cảnh lâm sàng thay đổi hoặc triệu chứng dai dẳng.

Bảng

Điều trị viêm kết mạc

  • Ngăn ngừa lây lan

  • Điều trị triệu chứng

  • Kháng sinh nếu nguyên nhân là vi khuẩn

  • Thuốc kháng histamine tại chỗ và thuốc ổn định tế bào mast nếu nguyên nhân là dị ứng

Các bác sĩ lâm sàng phải thực hiện các bước sau để tránh truyền bệnh viêm kết mạc, bệnh thường rất dễ lây lan và lây lan qua các giọt bắn, bọ ve và lây truyền từ tay sang mắt:

  • Phải sát trùng tay hoặc rửa tay đúng cách (thoa đều tay, chà tay ít nhất 20 giây, rửa sạch, và lau khô bằng khăn giấy)

  • Khử trùng dụng cụ sau khi khám

Bệnh nhân nên làm những thăm dò sau đây:

  • Sử dụng chất khử trùng tay và/hoặc rửa tay kỹ sau khi chạm vào mắt hoặc dịch tiết mũi

  • Tránh chạm vào mắt không bị nhiễm trùng sau khi chạm vào mắt bị nhiễm bệnh

  • Tránh dùng chung khăn hoặc gối

  • Tránh bơi trong bể bơi

Phải làm sạch tiết tố của mắt và không băng che mắt. Trẻ nhỏ bị viêm kết mạc cần được nghỉ học ở nhà để tránh lây nhiễm. Đắp khăn tắm mát trên mắt giúp đỡ cảm giác bỏng rát và ngứa. Thuốc kháng sinh được sử dụng cho một số loại nhiễm trùng.

Viêm kết mạc cấp tính do vi khuẩn thường được điều trị bằng kháng sinh (thuốc bôi tại chỗ cho các nguyên nhân ngoại trừ lậu cầu và chlamydia). Viêm kết mạc do lậu cầu và viêm kết mạc chất vùi tế bào ở người lớn cần dùng kháng sinh toàn thân.

Viêm kết mạc do vi rút thường tự khỏi, nhưng những trường hợp nặng đôi khi cần dùng corticosteroid tại chỗ.

Viêm kết mạc dị ứng được điều trị bằng thuốc kháng histamine tại chỗ, thuốc chống viêm không steroid, thuốc ổn định tế bào mast hoặc dạng phối hợp. Corticosteroid tại chỗ hoặc cyclosporine được sử dụng cho các trường hợp khó chữa. Thuốc kháng histamine đường uống có thể hữu ích cho bệnh nhân có các triệu chứng dị ứng khác (ví dụ: chảy nước mũi).

Những điểm chính

  • Viêm kết mạc thường là kết quả của nhiễm trùng, dị ứng, hoặc kích ứng.

  • Viêm kết mạc nhiễm khuẩn thường rất dễ lây.

  • Những triệu chứng điển hình là đỏ (không có cương tụ thể mi) và xuất tiết, không có triệu chứng đau hoặc mất thị lực.

  • Chẩn đoán thường dựa vào lâm sàng.

  • Điều trị bao gồm các biện pháp ngăn ngừa lây lan và điều trị nguyên nhân (ví dụ: đôi khi dùng thuốc kháng khuẩn).