Phục hồi chức năng di chuyển

TheoSalvador E. Portugal, DO, New York University, Robert I. Grossman School of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 08 2021

Trước khi phẫu thuật cắt cụt, bác sĩ cần phổ biến cho bệnh nhân về vai trò cần thiết của chương trình phục hồi chức năng hậu phẫu. Tư vấn tâm lý cũng có thể được chỉ định trong những trường hợp này. Việc có cần dùng xe lăn hay chi giả hay không phụ thuộc vào quyết định của nhóm phục hồi chức năng và bệnh nhân. (Xem thêm Tổng quan về Phục hồi chức năngChi giả.)

Phục hồi chức năng giúp hướng dẫn kỹ năng di chuyển cho bệnh nhân; nó bao gồm các bài tập để cải thiện toàn trạng và khả năng thăng bằng, nhằm kéo giãn khớp háng và khớp gối, để tăng cường sức mạnh của tất cả các chi, và để giúp bệnh nhân dung nạp tốt chi giả. Có thể chỉ định cho bệnh nhân các bài tập sức bền, bởi việc di chuyển đòi hỏi mức tiêu thụ năng lượng gia tăng từ 10 đến 40% sau phẫu thuật cắt cụt chi dưới gối, và 60 đến 100% sau phẫu thuật cắt cụt trên gối. Nên bắt đầu phục hồi chức năng ngay khi tình trạng bệnh nhân ổn định để ngăn ngừa các thương tật thứ cấp. Bệnh nhân người cao tuổi nên bắt đầu tập đứng và tập thăng bằng với thanh song song càng sớm càng tốt.

Co cứng khớp háng và khớp gối có thể tiến triển nhanh chóng, khiến việc lắp và sử dụng chi giả trở nên khó khăn. Có thể ngăn ngừa tình trạng co cứng này bằng các nẹp cố định do các chuyên gia hoạt động trị liệu tạo ra.

Các bác sĩ chuyên khoa phục hồi chức năng hướng dẫn bệnh nhân cách chăm sóc phần mỏm cắt cụt và cách nhận biết các dấu hiệu sớm của tình trạng tổn thương da.

Tình trạng mỏm cụt và chi giả

Các phương pháp gây co rút mỏm cụt nhằm thúc đẩy tiến trình co rút tự nhiên bắt buộc phải xuất hiện trước khi có thể chỉ định lắp chi giả. Chỉ sau áp dụng các phương pháp này, mỏm cụt có thể bị co rút lại khá nhiều. Bộ đeo gây co rút bằng vật liệu cao su hoặc băng cao su đeo 24 giờ/ngày có thể giúp giảm kích thước mỏm cụt và ngăn tình trạng phù nề (xem Phù chân tay còn sót lại). Bộ đeo gây co rút dễ sử dụng, nhưng băng được lựa chọn nhiều hơn vì chúng có thể kiểm soát tốt hơn lực và vị trí đặt áp lực. Tuy nhiên, việc sử dụng băng cao su đòi hỏi kỹ năng, và cần buộc chặt lại mỗi khi chúng bị lỏng.

Tập di chuyển sớm với chi giả tạm thời sẽ tạo các thuận lợi sau:

  • Cho phép bệnh nhân trở nên chủ động

  • Đẩy nhanh tiến trình co rút mỏm cụt

  • Tránh tình trạng co cứng

  • Giảm đau do hội chứng chi ma

Ổ cắm trụ (khung xương của chi giả) phải khớp vừa với mỏm cụt. Thiết kế này là hoàn toàn có thể với quy trình sản xuất và hệ thống máy móc hiện đại. Có sẵn nhiều mô hình chi giả tạm thời có ổ cắm trụ có thể điều chỉnh được. Bệnh nhân có chi giả tạm thời có thể bắt đầu tập với thanh song song và tiến tới đi bộ bằng nạng hoặc gậy tới khi có chi giả vĩnh viễn.

Chi giả vĩnh viễn phải có trọng lượng nhẹ và bảo đảm tính an toàn cũng như nhu cầu sử dụng của bệnh nhân. Nếu chi giả được tạo ra trước khi các mỏm cụt dừng co lại, có thể cần có sự điều chỉnh. Do đó, việc sản xuất chi giả vĩnh viễn thường bị trì hoãn vài tuần cho đến khi mỏm cụt dừng co rút hoàn toàn. Đối với hầu hết các bệnh nhân lớn tuổi bị cắt cụt dưới đầu gối, tốt nhất nên sử dụng bộ phận giả chịu lực của gân xườn bánh chè với mắt cá chân vững chắc, bàn chân có gót đệm và hệ thống treo vòng bít trên xương bánh chè. Trừ khi bệnh nhân có nhu cầu đặc biệt, không nên sử dụng chi giả dưới gối nối với đùi và đai lưng do nặng và cồng kềnh. Đối với những bệnh nhân cắt cụt trên khớp gối, có nhiều lựa chọn cố định khớp gối, tùy theo kỹ năng và mức độ hoạt động của bệnh nhân. Một số công nghệ mới hơn bao gồm khớp nối đầu gối và khớp cổ chân được điều khiển bởi bộ vi xử lý cho phép bệnh nhân điều chỉnh chuyển động khi cần thiết.

Chăm sóc chi giả và mỏm cụt

Bệnh nhân phải học cách chăm sóc phần chi còn lại của họ (xem phần Chăm sóc da của chi còn lại). Vì chi giả chỉ được dùng để di chuyển, bệnh nhân nên tháo bỏ chi giả trước khi đi ngủ. Trước khi đi ngủ, cần kiểm tra kỹ lưỡng tình trạng mỏm cụt (bằng gương nếu bệnh nhân tự kiểm tra), rửa bằng xà phòng nhẹ và nước ấm, phơi khô, sau đó phủ bột talc. Bệnh nhân nên điều trị nếu xảy ra tình trạng:

  • Da khô: Sử dụng lanolin hoặc petrolatum bôi mỏm cụt.

  • Ra mồ hôi quá nhiều: Bôi thuốc chống ra mồ hôi không mùi.

  • Viêm da: Cần ngay lập tức loại bỏ chất kích ứng, bôi bột talc hoặc kem hoặc mỡ corticosteroid có nồng độ thấp.

  • Tổn thương da: Không nên đeo chi giả cho đến khi vết thương lành lại.

Các vớ bọc mỏm cụt nên được thay đổi hàng ngày, có thể dùng xà phòng nhẹ để làm sạch bên trong ổ cắm. Các chi giả đạt tiêu chuẩn không có tính chống thấm và kháng nước. Vì vậy, nếu chi giả bị ướt dù chỉ trên một phần nhỏ, cần làm khô toàn bộ chi ngay lập tức; không nên sử dụng các biện pháp làm khô bằng nhiệt. Đối với những bệnh nhân bơi lội hoặc tắm với chân giả, nên sử dụng các chi giả có tính chống thấm.

Các biến chứng

Đau phần chi còn lại là phàn nàn phổ biến nhất (xem Đau ở chi còn lại). Nguyên nhân thường gặp bao gồm

  • Chi giả không khớp tốt với mỏm cụt: Đây là nguyên nhân phổ biến nhất.

  • U dây thần kinh: U dây thần kinh tại mỏm cụt thường sờ thấy rõ. Điều trị bằng siêu âm hàng ngày trong 5 đến 10 buổi thường có hiệu quả. Các phương pháp điều trị khác bao gồm tiêm corticosteroids hoặc thuốc giảm đau vào khối u dây thần kinh hoặc khu vực xung quanh, liệu pháp nhiệt lạnh, và quấn băng mỏm cụt. Phẫu thuật thường không mang lại kết quả như mong đợi.

  • Hình thành cựa xương cuối phần cắt cụt: Có thể được chẩn đoán bằng khám lâm sàng và chụp X-quang. Phẫu thuật cắt bỏ cựa xương là phương thức điều trị duy nhất có hiệu quả.

Bệnh nhân mới cắt cụt chi có thể có hội chứng chi ma (cảm nhận sự tồn tại của chi bị cắt bỏ, có thể kèm theo cảm giác kim châm). Cảm giác này có thể kéo dài vài tháng hoặc nhiều năm nhưng thường biến mất mà không cần điều trị. Thông thường, bệnh nhân chỉ cảm nhận được một phần của chi bị cắt cụt, thường là bàn chân. Hội chứng chi ma thường không gây hại; tuy nhiên, một số bệnh nhân, trong tình trạng vô thức, có thể đứng ở tư thế hai chân và từ đó gây ngã, đặc biệt khi họ phải đi vào nhà vệ sinh vào ban đêm.

Đau do hội chứng chi ma ít gặp hơn, có thể ở mức độ nghiêm trọng và khó kiểm soát. Một số chuyên gia cho rằng biểu hiện đau có nhiều khả năng xuất hiện, nếu bệnh nhân đau nhiều trước khi cắt cụt, hoặc nếu đau không được kiểm soát đầy đủ trong và sau phẫu thuật. Có nhiều phương pháp điều trị khác nhau, như tập luyện đồng thời cả chi bị cắt cụt và chi lành, xoa bóp chân, gõ mỏm cụt, sử dụng các thiết bị cơ học (như máy rung) và siêu âm. Điều trị thuốc (như gabapentin) có thể hữu ích.

Tổn thương da có khuynh hướng xuất hiện bởi chi giả gây đè ép vào da và gây co kéo da, đồng thời môi trường giữa mỏm cụt và ổ chi giả khá ẩm thấp. Tổn thương da là dấu hiệu đầu tiên cho thấy cần có sự kiểm soát và điều chỉnh chi giả ngay lập tức. Dấu hiệu đầu tiên của tổn thương là đỏ da; sau đó xuất hiện các dạng tổn thương cắt, mụn nước và loét. Chi giả thường tạo cảm giác đau khiến bệnh nhân không thể đeo tiếp, có thể xuất hiện nhiễm trùng kèm theo. Một số biện pháp có thể giúp ngăn ngừa hoặc trì hoãn tổn thương da xuất hiện:

  • Khớp nối tốt giữa chi giả và mỏm cụt

  • Duy trì trọng lượng cơ thể ổn định (ngay cả những thay đổi nhỏ về trọng lượng cũng có thể ảnh hưởng đến khớp nối)

  • Ăn uống lành mạnh và uống nhiều nước (để kiểm soát trọng lượng cơ thể và duy trì làn da khỏe mạnh)

  • Đối với bệnh nhân đái tháo đường, theo dõi và kiểm soát đường máu (để giúp ngăn ngừa biến chứng mạch máu và từ đó duy trì dòng máu tới da)

  • Đối với bệnh nhân có chân giả, cần duy trì tốt tư thế (mang giày có chiều cao gót tương đương bên cắt cụt)

Tuy nhiên, ngay cả khi chi giả khớp tốt, vẫn có thể xảy ra các biến chứng. Mỏm cụt có sự thay đổi về hình dạng và kích thước trong ngày, tùy thuộc vào mức độ hoạt động, chế độ ăn uống và thời tiết. Do đó, mức độ khớp nối giữa mỏm cụt với chi giả cũng có thể thay đổi. Để đáp ứng những thay đổi này, bệnh nhân có thể duy trì tình trạng khớp nối bằng cách chuyển sang lớp lót dày hoặc mỏng hơn, bằng cách sử dụng lót và vớ, hoặc bằng cách thêm hoặc tháo các lớp lót đó ra. Nhưng ngay cả như vậy, kích thước mỏm cụt vẫn có thể có sự thay đổi đủ để gây tổn thương tại da. Nếu có dấu hiệu tổn thương da, bệnh nhân nên nhanh chóng gặp bác sĩ và chuyên gia phục hình khi có thể; đồng thời nên hạn chế đeo chi giả trước khi có sự điều chỉnh. (Xem thêm Lỏng bộ phận giả.)