Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch vành (Coronary Artery Bypass Grafting - CABG)

TheoThomas Cascino, MD, MSc, Michigan Medicine, University of Michigan;Michael J. Shea, MD, Michigan Medicine at the University of Michigan
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 07 2021

Phẫu thuật bắc cầu động mạch vành (CABG) là phương pháp mổ bắc cầu trên những động mạch vành bị hẹp nặng hoặc tắc mà không phù hợp cho đặt stent. Chỉ định của phương pháp này đang có nhiều thay đổi do can thiệp động mạch vành qua da đang ngày càng được chỉ định rộng rãi.

Phẫu thuật CABG truyền thống

Phẫu thuật bắc cầu động mạch vành truyền thống đòi hỏi mở ngực theo đường giữa xương ức. Một máy tim phổi nhân tạo được sử dụng để thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể, cho phép tim ngừng và đuổi máu khỏi tim để bộc lộ tối đa phẫu trường và tạo điều kiện khâu nối mạch thuận lợi. Việc làm tim ngừng đập cũng giúp giảm đáng kể nhu cầu oxy cho cơ tim.

Trước khi bắt đầu chạy tim phổi nhân tạo, bệnh nhân sẽ được tiêm heparin liều cao để tránh đông máu trong hệ thống máy và ống dẫn máu của máy tim phổi. Sau đó, người ta tiến hành kẹp động mạch chủ và tiêm một loại dung dịch làm liệt tim và cũng chứa những chất giúp tế bào cơ tim chịu đựng được thời gian thiếu máu và giai đoạn tái tưới máu sau đó. Các dung dịch làm liệt tim và quả tim được làm lạnh một chút để tăng cường khả năng chịu được thiếu máu. Cơ thể của bệnh nhân được làm lạnh nhờ hệ thống máy tim phổi nhân tạo cũng với lý do tương tự.

Động mạch vú trong bên trái thường được phẫu tích và sử dụng để nối vào động mạch liên thất trước. Các đoạn mạch ghép khác được lấy từ tĩnh mạch hiển ở chân bệnh nhân. Thỉnh thoảng, có thể sử dụng động mạch vú trong bênh phải hoặc đoạn động mạch quay ở tay không thuận.

Sau khi hoàn thành phẫu thuật nối mạch, động mạch chủ được tháo kẹp, cho phép máu động mạch giàu oxy tưới vào hệ động mạch vành và phục hồi hoạt động của tim. Sau đó, trung hòa Heparin bằng Protamine. Mặc dù trong phẫu thuật này, có nhiều biện pháp để bảo vệ tim nhưng việc làm ngừng tim để mổ vẫn có lúc để lại hậu quả. Ở giai đoạn tái tưới máu, hiện tượng suy chức năng tim rất phổ biến và có thể dẫn đến nhịp chậm, rối loạn nhịp (ví dụ rung thất), và giảm cung lượng tim.

Thông thường, thời gian nằm viện khoảng 4 đến 5 ngày, trừ khi có biến chứng sau mổ hoặc các bệnh lý kèm theo.

Các biến chứng của phẫu thuật bắc cầu động mạch vành

Các biến chứng của CABG truyền thống liên quan chủ yếu đến

  • Cắt xương ức

  • Tim phổi nhân tạo

Việc cắt xương ức theo đường giữa để mở ngực thường phục hồi rất tốt nhưng phải mất 4 đến 6 tuần. Tuy nhiên, nhiễm trùng vết mổ đối khi có thể gây nhiễm trùng trung thất và viêm tủy xương ức làm điều trị khá khó khăn.

CPB gây một số biến chứng nghiêm trọng, bao gồm

  • Chảy máu

  • Rối loạn chức năng nội tạng, bao gồm cả tác động tâm thần kinh

  • Đột quỵ

Nguyên nhân chảy máu do nhiều yếu tố, bao gồm pha loãng máu, sử dụng heparin, giảm chức năng tiểu cầu do tiếp xúc với máy bơm tuần hoàn, đông máu nội mạch rải rác và hạ thân nhiệt.

Suy chức năng nội tạng có thể là hậu quả của phản ứng viêm hệ thống do máy tuần hoàn ngoài cơ thể gây ra (có thể là do các thành phần của máu tiếp xúc với các vật liệu ngoại lai của hệ thống dây dẫn máu của máy) phản ứng này có thể gây rối loạn chức năng cơ quan trong bất kỳ hệ thống nào (ví dụ: phổi, thận, não, đường tiêu hóa). Thắt động mạch chủ, kẹp chéo và giải phóng có thể kích hoạt giải phóng thuyên tắc, gây đột quỵ khoảng 1,5%; tắc các vi mạch nhỏ trên não có thể là nguyên nhân của các ảnh hưởng đến tâm thần kinh, xảy ra với tỷ lệ 5 đến 10%.

Các biến chứng phổ biến khác của CABG bao gồm

  • Loạn nhịp tim

  • Thiếu máu cục bộ cơ tim

  • Thiếu máu cơ tim toàn bộ

Nhồi máu cơ tim quanh phẫu thuật xảy ra ở khoảng 1% số bệnh nhân. Rung nhĩ xảy ra ở 15 đến 40% số bệnh nhân, thường gặp từ 2 đến 4 ngày sau khi phẫu thuật. Chẹn beta (bao gồm sotalol) và amiodarone được chứng minh làm giảm khả năng xuất hiện rối loạn nhịp nhĩ sau phẫu thuật tim. Tim nhanh thất không bền bỉ có thể xảy ra ở 50% số bệnh nhân.

Tỷ lệ tử vong phụ thuộc chủ yếu vào thể trạng nền của bệnh nhân. Kinh nghiệm của phẫu thuật viên và của cả đơn vị (ví dụ số ca mổ một năm) cũng ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ tử vong. Ở một trung tâm có kinh nghiệm, tỷ lệ tử vong quanh mổ ở những bệnh nhân có thể trạng tốt thường < 1 đến 3%.

Một công thức tính đơn giản có thể giúp phân loại nguy cơ CABG thành ba nhóm (thấp, trung bình, cao). Công cụ tính rủi ro phẫu thuật tim trực tuyến chuyên sâu hơn được công bố bởi Hiệp hội Phẫu thuật Lồng ngực châu Âu.

Phẫu thuật thay thế CABG

Các kỹ thuật mới ra đời nhằm hạn chế các biến chứng của phẫu thuật bắc cầu động mạch vành thường quy

  • Tránh dùng tuần hoàn ngoài cơ thể

  • Tránh phải mở xương ức (phẫu thuật CABG xâm lấn tối thiểu)

  • Cả hai

CABG không dùng tuần hoàn ngoài cơ thể

Kỹ thuật khâu cầu nối trong khi tim vẫn đập được áp dụng cho một số đối tượng bệnh nhân nhằm tránh phải sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể. Một số thiết bị được áp dụng để giữ ổn định một vùng cơ tim nào đó, làm cho nó hầu như không co bóp để phẫu thuật viên tiến hành khâu cầu nối tại vị trí này.

Kỹ thuật mổ bắc cầu không dùng tuần hoàn ngoài cơ thể thường sử dụng một đường mổ nhỏ cạnh ức hoặc ở khe liên sườn, đôi khi có sự hỗ trợ của nội soi hoặc robot. Tuy nhiên, để có phẫu trường tốt hơn, phẫu thuật viên vẫn có thể mở xương ức để thực hiện kỹ thuật này.

Cho phép tim đập trong khi mổ có nghĩa là cơ tim cần nhu cầu oxy cao hơn trong quá trình mổ so với việc tim ngừng hoàn toàn khi sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể. Do đó, tim sẽ dễ bị tổn thương do thiếu máu tạm thời hoặc thậm chí nhồi máu cơ tim trong mổ vì khi tiến hành kỹ thuật khâu cầu nối, máu sẽ bị tạm thời gián đoạn ở đoạn mạch vành đang khâu. Một số phẫu thuật viên đặt một ống mạch tạm thời để cung cấp máu cho đoạn xa trong khi khâu cầu nồi.

Về mặt kỹ thuật, CABG không sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể có nhiều thách thức hơn nhưng có thể thích hợp ở những bệnh nhân có vôi hóa động mạch chủ đáng kể khiến cho việc thao tác ở động mạch chủ có nguy cơ cao hơn. So với các thủ thuật có sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể, CABG không sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể có liên quan đến việc tăng nhu cầu tái thông mạch sau một năm.

CABG xâm lấn tối thiểu

Kỹ thuật CABG xâm lấn tối thiểu đôi khi khó thực hiện hơn và có thể không thích hợp khi cần phải bắc cầu nhiều nhánh, đặc biệt là các mạch máu ở mặt sau tim. Phẫu thuật CABG không dùng tuần hoàn ngoài cơ thể thường ít phải truyền máu, thời gan nằm viện ngắn hơn và chi phí phẫu thuật thấp hơn. Tuy nhiên, trong một số nghiên cứu, tỷ lệ biến chứng tử vong, nhồi máu cơ tim và nhồi máu não tương đương với CABG có tuần hoàn ngoài cơ thể. Do đó, những lợi ích về mặt lý thuyết của việc tránh dùng tuần hoàn ngoài cơ thể có vẻ chưa được nhận biết đầy đủ.

CABG xâm lấn tối thiểu thường được áp dụng mà không cần tuần hoàn ngoài cơ thể. Động mạch chủ sẽ được bịt bằng một quả bóng ở đầu của ống thông động mạch chứ khi phải kẹp bên ngoài như mổ thường quy. Mặc dù phẫu thuật xâm lấn tối thiểu tránh được các biến chứng nhiễm trùng xương ức nhưng các báo cáo cho thấy tỷ lệ tử vong chung và các biến chứng chu phẫu nặng tương đương với phẫu thuật truyền thống.