Việc xử lý các ký ức bao gồm:
Ghi nhận (lấy thông tin mới)
Mã hóa (tạo các liên kết, định mốc thời gian và các quá trình khác cần thiết cho việc tìm kiếm)
Lấy lại thông tin
Thiếu sót trong bất kỳ bước nào đều có thể gây ra chứng quên. Theo định nghĩa, chứng mất trí nhớ là do sự suy giảm các chức năng bộ nhớ Mất trí nhớ Mất trí nhớ là một triệu chứng phổ biến trong các cơ sở chăm sóc ban đầu. Nó đặc biệt phổ biến trong số những người cao tuổi nhưng cũng có thể gặp ở những người trẻ tuổi. Đôi khi các thành viên... đọc thêm , không suy giảm các chức năng khác (ví dụ như chú ý, động lực, lý luận, ngôn ngữ), có thể gây ra các triệu chứng tương tự.
Chứng mất trí nhớ có thể được phân loại như sau:
Ngược chiều: Mất trí nhớ đối với các sự kiện trước biến cố gây bệnh xảy ra
Thuận chiều: Không có khả năng lưu trữ những kí ức mới sau khi sự kiện gây bệnh xảy ra
Đặc hiệu theo từng giác quan: Mất trí nhớ đối với các sự kiện được xử lý bởi một giác quan - ví dụ: trí nhớ về thị giác
Mất trí nhớ có thể
Thoáng qua (xảy ra sau chấn thương não)
Vĩnh viễn, xảy ra sau một biến cố nghiêm trọng như viêm não Viêm não Viêm não là tình trạng viêm nhu mô não do vi rút xâm nhập trực tiếp hoặc xảy ra như một biến chứng miễn dịch sau nhiễm trùng do phản ứng quá mẫn với vi rút hoặc một protein lạ khác. Triệu chứng... đọc thêm , thiếu máu cục bộ toàn bộ hoặc ngừng tim
Tiến triển (xảy ra với sa sút trí tuệ do bệnh thoái hóa, như bệnh Alzheimer Bệnh Alzheimer Bệnh Alzheimer gây suy thoái nhận thức tiến triển và được đặc trưng bởi sự lắng đọng beta amyloid và các đám rối thần kinh ở vỏ não và chất xám dưới vỏ. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng; xét nghiệm... đọc thêm )
Rối loạn trí nhớ thường ảnh hưởng nhiều hơn đến sự kiện (trí nhớ quy nạp) và, ảnh hưởng ít hơn tới các kỹ năng (trí nhớ thường trực).
Căn nguyên của mất trí nhớ
Mất trí nhớ có thể là hậu quả của suy giảm trí não lan tỏa, tổn thương hai bên, hoặc tổn thương nhiều ổ làm giảm khu vực lưu trữ trí nhớ ở bán cầu não.
Các đường dẫn truyền chủ yếu đối với trí nhớ quy nạp nằm dọc theo mặt trong của vùng cạnh hải mã và hồi hải mã cũng như phần dưới trong các thùy thái dương, vùng ổ mắt của thùy trán (vùng nền não trước) và gian não (có chứa đồi thị và vùng dưới đồi). Trong số những cấu trúc này, những cấu trúc sau đây đóng vai trò quan trọng:
Hồi hải mã
Vùng dưới đồi
Hạnh nhân của vùng nền não trước
Nhân thalamic trung gian
Các nhân của hạnh nhân góp phần làm tăng cảm xúc lên trí nhớ. Nhân các lá của đồi thị và cấu trúc lưới của thân não kích thích sự ghi lại những ký ức. Tổn thương hai bên đối với nhân mặt lưng trong của đồi thị làm suy giảm nghiêm trọng trí nhớ gần và khả năng hình thành nên những ký ức mới.
Mất trí nhớ có thể do
Thiếu vitamin B1 (gây ra Bệnh não Wernicke Bệnh não Wernicke Bệnh não Wernicke được đặc trưng bởi sự khởi phát cấp tính biểu hiện lẫn lộn, rung giật nhãn cầu, liệt vận nhãn một phần, và thất điều do thiếu hụt thiamin. Chẩn đoán chủ yếu là lâm sàng. Rối... đọc thêm hoặc là loạn thần Korsakoff Korsakoff Psychosis Korsakoff Psychosis là một biến chứng muộn của bệnh não Wernicke dai dẳng và dẫn đến giảm trí nhớ, lẫn lộn và thay đổi hành vi. Korsakoff Psychosis xảy ra ở 80% bệnh nhân không được điều trị... đọc thêm ) ở bệnh nhân nghiện rượu nặng mạn tính hoặc suy dinh dưỡng nặng
Chứng thiếu máu não toàn bộ hoặc thiếu oxy não
Thuyên tắc ở đỉnh của động mạch thân nền, gây thiếu máu ở phân trước bên các thùy thái dương.
Sa sút trí tuệ Sa sút trí tuệ Sa sút trí tuệ là sự suy giảm của nhận thức mạn tính, toàn bộ, thường không thể đảo ngược. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng; xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh thường được sử dụng để xác định các nguyên... đọc thêm do thoái hóa như bệnh Alzheimer Bệnh Alzheimer Bệnh Alzheimer gây suy thoái nhận thức tiến triển và được đặc trưng bởi sự lắng đọng beta amyloid và các đám rối thần kinh ở vỏ não và chất xám dưới vỏ. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng; xét nghiệm... đọc thêm
Ngộ độc nhiều thuốc khác nhau (ví dụ hít phải dung môi mãn tính, độc tính của amphotericin B hoặc lithium)
Các khối u ở vùng dưới đồi
Chấn thương tâm lý hoặc căng thẳng
Hội chứng Wernicke-Korsakoff là một dạng mất trí nhớ kết hợp bệnh não Wernicke Bệnh não Wernicke Bệnh não Wernicke được đặc trưng bởi sự khởi phát cấp tính biểu hiện lẫn lộn, rung giật nhãn cầu, liệt vận nhãn một phần, và thất điều do thiếu hụt thiamin. Chẩn đoán chủ yếu là lâm sàng. Rối... đọc thêm và bệnh tâm thần Korsakoff Korsakoff Psychosis Korsakoff Psychosis là một biến chứng muộn của bệnh não Wernicke dai dẳng và dẫn đến giảm trí nhớ, lẫn lộn và thay đổi hành vi. Korsakoff Psychosis xảy ra ở 80% bệnh nhân không được điều trị... đọc thêm .
Chứng mất trí nhớ sau chấn thương trong các giai đoạn ngay trước và sau khi bị chấn động não hoặc chấn thương sọ não ở mức độ vừa phải hoặc nặng có vẻ do tổn thương mặt trong thùy thái dương. Chấn thương ở mức vừa phải hoặc nghiêm trọng có thể ảnh hưởng đến các khu vực lưu trữ trí nhớ và hồi tưởng lớn hơn, cũng như nhiều bệnh lý não lan tỏa có thể gây ra chứng sa sút trí tuệ.
Rối loạn trí nhớ do căn nguyên tâm lý (xảy ra trong mất trí nhớ phân ly Quên phân ly Quên phân ly là một dạng của rối loạn phân ly liên quan tới sự mất khả năng tái hiện lại được các thông tin cá nhân quan trọng mà thường không bị mất đi trong việc quên bình thường. Nó thường... đọc thêm ) là kết quả của chấn thương tâm lý hoặc căng thẳng quá mức.
Sự suy giảm trí nhớ liên quan đến độ tuổi (quên lành tính tuổi già) đề cập đến mất trí nhớ xảy ra cùng quá trình lão hóa bình thường. Những người bị quên lành tính tuổi già dần dần tiến triển các vấn đề đáng chú ý với trí nhớ, thông thường trước hết là tên gọi, sau đó là các sự kiện, và thỉnh thoảng là các mối liên hệ về không gian. Các bài kiểm tra nhận thức khách quan thường cho kết quả bình thường hoặc cho thấy mức độ thiếu hụt tối thiểu. Quên lành tính tuổi già không có mối liên quan với chứng sa sút trí tuệ, mặc dù có một số điểm tương đồng khó có thể bỏ qua.
Suy giảm nhận thức nhẹ thể trí nhớ (amnestic MCI) có thể xuất hiện ở những người có rối loạn trí nhớ mang tính chủ quan, những người thực hiện các bài kiểm tra trí nhớ khách quan kém hơn, nhưng những người này có nhận thức nguyên vẹn và chức năng hàng ngày bình thường. Những người bị MCI amnestic có nhiều khả năng tiến triển thành bệnh Alzheimer hơn những người cùng độ tuổi không có vấn đề về trí nhớ.
Chẩn đoán mất trí nhớ
Thăm khám thần kinh tại giường
Các bài kiểm tra thần kinh - tâm lý
Các kiểm tra đầu giường đơn giản (ví dụ: nhớ lại 3 món đồ, vị trí của các đồ vật trước đây được giấu trong phòng) và các kiểm tra tâm lý thần kinh chính thức Chẩn đoán (ví dụ: các kiểm tra việc học danh sách từ như kiểm tra học bằng lời nói của California và Kiểm tra nhắc nhở có chọn lọc Buschke) có thể giúp xác định mất trí nhớ lời nói. Đánh giá trí nhớ không lời khó hơn nhưng có thể bao gồm việc nhớ lại các hình khối trực quan hoặc một loạt các âm.
Các phát hiện trên lâm sàng thường gợi ý nguyên nhân gây bệnh và các xét nghiệm cần thiết.
Điều trị mất trí nhớ
Điều trị theo nguyên nhân
Bất kỳ bệnh lý tiềm ẩn hoặc nguyên nhân tâm lý của chứng mất trí nhớ cũng đều phải được điều trị. Tuy nhiên, một số bệnh nhân bị mất trí nhớ cấp tính cải thiện một cách tự phát. Một số bệnh lý gây mất trí nhớ (ví dụ: bệnh Alzheimer, bệnh tâm thần Korsakoff, viêm não herpes) có thể điều trị được; tuy nhiên, điều trị bệnh lý tiềm ẩn có thể làm giảm chứng quên nhưng cũng có thể không.
Thuốc cholinergic (ví dụ: donepezil) có thể cải thiện nhẹ và tạm thời trí nhớ ở bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer; những loại thuốc này cũng thường được điều trị thử khi hội chứng sa sút trí tuệ khác là nguyên nhân. Nếu không, không có biện pháp cụ thể nào có thể thúc đẩy phục hồi hoặc cải thiện kết quả.
Những điểm chính
Mất trí nhớ có nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm chấn thương sọ não, chứng sa sút trí tuệ do thoái hóa, bệnh lý chuyển hóa, động kinh, chấn thương tâm lý hoặc căng thẳng.
Chẩn đoán mất trí nhớ trên lâm sàng bằng các trắc nghiệm tại giường (ví dụ, nhắc lại 3 từ) hoặc các bài trắc nghiệm chuyên sâu (ví dụ, trắc nghiệm nhớ danh sách từ).
Điều trị nguyên nhân mất trí nhớ.