Rối loạn chu trình ure

TheoMatt Demczko, MD, Mitochondrial Medicine, Children's Hospital of Philadelphia
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 10 2021

Rối loạn chu trình urê được đặc trưng bởi tăng ammoniac máu trong các điều kiện dị hoá hoặc đưa vào protein.

Có nhiều loại rối loạn chu trình urê và các rối loạn liên quan (xem bảng) cũng như nhiều loại khác các rối loạn chuyển hoá axit amin và axit hữu cơ. Xem thêm Cách tiếp cận bệnh nhân nghi ngờ rối loạn chuyển hoá di truyền.

Các rối loạn chu trình urê nguyên phát (UCD) bao gồm thiếu hụt carbamoyl phosphate synthase (CPS), thiếu ornithine transcarbamylase (OTC), thiếu argininosuccinate synthetase (citrulline máu), thiếu argininosuccinate lyase (argininosuccinic axit niệu) và thiếu arginase (arginine máu) và thiếu hụt N-acetylglutamate synthetase (NAGS). Sự thiếu hụt enzyme càng "gần", tăng ammoniac máu càng nặng; do đó, mức độ nghiêm trọng của bệnh theo thứ tự giảm dần là thiếu hụt NAGS, thiếu CPS, thiếu OTC, citrullin máu, argininosuccinic axit niệu, và arginin máu.

Di truyền đối với tất cả các rối loạn chu trình ure (UCD) là di truyền lặn trên nhiễm sắc thê thường, ngoại trừ thiếu ornithine transcarbamylase (OTC), là liên kết X.

Bảng

Các triệu chứng và dấu hiệu của rối loạn chu kỳ urê

Biểu hiện lâm sàng bao gồm từ nhẹ (ví dụ, chậm lớn, thiểu năng trí tuệ, tăng ammoniac máu từng đợt) đến nghiêm trọng (ví dụ tình trạng tinh thần thay đổi, hôn mê, tử vong). Các biểu hiện ở người mang là nữ bị thiếu OTC bao gồm từ sự chậm tăng trưởng, chậm phát triển, bất thường tâm thần, và tăng ammoniac máu từng đợt (đặc biệt là sau sinh) đến một kiểu hình tương tự như nam giới bị bệnh (tức là nôn tái diễn, kích thích, li bì, hôn mê tăng ammoniac máu, phù não, co cứng, khuyết tật trí tuệ, co giật, tử vong).

Chẩn đoán rối loạn chu kỳ urê

  • Xét nghiệm axit amin trong huyết thanh

Chẩn đoán rối loạn chu trình urê được dựa trên xét nghiệm axit amin. Ví dụ, ornithine tăng cao cho thấy sự thiếu hụt CPS hoặc thiếu OTC, trong khi đó citruline tăng cao cho thấy bệnh citrulline máu. Để phân biệt giữa sự thiếu hụt CPS và thiếu OTC, đo nồng độ axit orotic hữu ích vì sự tích lũy carbamoyl phosphate trong thiếu OTC dẫn đến sự chuyển hoá thay thế của nó với axit orotic. Xét nghiệm di truyền có thể khẳng định chẩn đoán.

Điều trị rối loạn chu kỳ urê

  • Chế độ ăn hạn chế protein

  • Bổ sung arginine hoặc citrulline

  • Natri phenylbutyrat

  • Có thể ghép gan

Điều trị rối loạn chu trình urê gồm chế độ ăn hạn chế protein mà vẫn cung cấp đủ axit amin cho sự tăng trưởng, phát triển, và nhu cầu protein bình thường.

Arginine đã trở thành một điều trị thiết yếu. Nó cung cấp các chất trung gian chu trình urê thích hợp để khuyến khích việc kết hợp nhiều phân tử nitơ vào các chất trung gian chu trình urê, mỗi loại đều có thể được bài tiết ra. Arginine cũng là một chất điều hòa tích cực của tổng hợp acetylglutamate. Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng citrulline uống hiệu quả hơn arginine ở những bệnh nhân thiếu OTC.

Điều trị bổ sung với natri benzoat, phenylbutyrate, hoặc phenylacetate, chúng bằng cách liên hợp với glycine (natri benzoat) và glutamine (phenylbutyrate và phenylacetate) cung cấp một "bể chứa nitơ".

Mặc dù những tiến bộ điều trị này, rất nhiều rối loạn chu trình ure vẫn còn khó điều trị, và ghép gan là cần thiết cho nhiều bệnh nhân. Thời điểm ghép gan là rất quan trọng. Tối ưu, ghép khi trẻ lớn để giảm nguy cơ (> 1 tuổi), nhưng điều quan trọng là không đợi lâu đến mức tăng ammoniac máu (thường liên quan đến bệnh tật) gây ra tổn hại không thể khắc phục được đối với hệ thần kinh trung ương.

Thông tin thêm

Sau đây là một nguồn thông tin bằng tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.

  1. Online Mendelian Inheritance in Man® (OMIM®) database: Complete gene, molecular, and chromosomal location information