Tỷ lệ bệnh ở Mỹ là khoảng 1% người trưởng thành > 40 tuổi, với tỷ lệ nam : nữ là 3 : 2. Tỷ lệ bệnh tăng theo tuổi. Tuy nhiên, tỷ lệ chung đang giảm. Bệnh phổ biến nhất ở Châu Âu (ngoại trừ Scandinavia), Úc và New Zealand.
Nguyên nhân
Một số bất thường về gen, ảnh hưởng đến tác nhân hoạt hóa thụ thể của yếu tố nhân kappa-B (RANK-NFk B) có tác dụng phát tín hiệu sản xuất và hoạt hóa hủy cốt bào đã được xác định. Các đột biến của SQSTM1 (sequestosome-1) làm tăng hoạt tính của yếu tố nhân kappa-B, dẫn đến tăng hoạt tính của hủy cốt bào, phát hiện được ở khoảng 10% bệnh nhân mắc bệnh Paget (1). Quan sát mô xương bị bệnh dưới kính hiển vi điện tử thấy có hiện tượng nhiễm virus. Mặc dù chưa xác định được virus gây bệnh, nhưng giả thuyết cho rằng những bệnh nhân có yếu tố di truyền có phơi nhiễm trước đó với virus làm kích hoạt hoạt động bất thường của tế bào hủy xương.
Tài liệu tham khảm về nguyên nhân của bệnh
-
1. Laurin N, Brown JP, Morissette J, Raymond V: Recurrent mutation of the gene encoding sequestosome 1 (SQSTM1/p62) in Paget disease of bone. Am J Hum Genet 70:1582–1588, 2002. doi: 10.1086/340731.
Sinh bệnh học
Tổn thương có thể ở bất kì xương nào. Các xương thường bị tổn thương nhất là xương chậu, xương đùi và xương sọ. Các vị trí ít gặp hơn bao gồm xương chày, xương cột sống, xương đòn và xương cánh tay.
Chu chuyển xương tăng cao ở vị trí bị tổn thương. Các tổn thương xương trong bệnh Paget có hoạt động chuyển hóa cao và tăng sinh mạch. Các hủy cốt bào hoạt động quá mức thường có kích thước lớn và có nhiều hạt nhân. Hoạt động sửa chữa của tạo cốt bào cũng tăng quá mức tạo ra các dải xương thô, bè và thớ xương dày. Cấu trúc bất thường làm xương bị yếu mặc dù xương phì đại và có những vùng xơ xương.
Biến chứng
Các biến chứng thường gặp nhất của bệnh Paget xương là
Tỷ lệ thoái hóa khớp lên tới 50% bệnh nhân, xuất hiện ở các khớp tiếp giáp với xương bị tổn thương. Gãy xương bệnh lý cũng thường gặp tại vùng trung tâm của xương bị yếu.
Xương tăng sinh quá mức có thể gây chèn ép thần kinh và các cấu trúc khác khi đi qua các hốc xương , có thể gây hẹp ống sống hoặc chèn ép tủy sống.
Các biến chứng hiếm gặp bao gồm chuyển dạng thành ung thư xương chiếm khoảng 1% bệnh nhân. Xương tăng sinh mạch có thể gây chảy máu nhiều trong quá trình phẫu thuật chỉnh hình. Hiếm hơn, có thể gây tăng canxi máu ở những bệnh nhân bất động; tuy nhiên, tăng canxi máu ở bệnh nhân còn đi lại được gợi ý tình trạng cường cận giáp kèm theo. Suy tim tăng cung lượng do các tổn thương lớn hoặc nhiều cũng đã được báo cáo.
Triệu chứng
Bệnh Paget xương thường không có triệu chứng. Nếu có, các triệu chứng xuất hiện một cách âm thầm như đau, cứng khớp, mệt mỏi và biến dạng xương. Cảm giác đau nhức, đau sâu trong xương, một số trường hợp đau nhiều, đôi khi nặng hơn vào ban đêm. Đau cũng có thể do chèn ép dây thần kinh hoặc thoái hóa khớp. Nếu xương sọ bị tổn thương, bệnh nhân có thể đau đầu và giảm thính lực.
Các dấu hiệu có thể bao gồm phì đại xương thái dương hai bên hoặc xương trán (bướu trán), tĩnh mạch sọ giãn, điếc do nguyên nhân thần kinh một hoặc cả hai tai, chóng mặt và nhức đầu. Các dị dạng có thể xuất hiện như cong các xương dài hoặc thoái hóa khớp. Gãy xương bệnh lý có thể là một biểu hiện của bệnh. Ung thư xương thường được nghĩ tới khi bệnh nhân đau nhiều tăng dần.
Chẩn đoán
Nghĩ tới bệnh Paget xương khi bệnh nhân có các triệu chứng:
-
Đau xương hoặc biến dạng xương không giải thích được
-
Những dấu hiệu gợi ý trên X-quang
-
Phosphatase kiềm trong huyết thanh tăng không lý giải được bằng các nguyên nhân khác, đặc biệt nếu gamma-glutamyl transpeptidase (GGT) bình thường
-
Tăng canxi máu ở những bệnh nhân bất động, nhất là người cao tuổi
-
Ung thư xương ở bệnh nhân cao tuổi
Nếu nghi ngờ bệnh Paget, nên chỉ định chụp phim Xquang thường quy và định lượng phosphatase kiềm trong huyết thanh, canxi, và PO4 . Chẩn đoán xác định dựa vào Xquang. Các dấu hiệu đặc trưng trên Xquang bao gồm:
Có thể có vi gãy xương do áp lực lên bờ ngoài của xương chày hoặc xương đùi.
Chụp xạ hình xương bằng phosphonat được đánh dấu bởi technetium nên được chỉ định từ thời điểm ban đầu để xác định các xương bị tổn thương.
Các kết quả xét nghiệm đặc trưng bao gồm tăng phosphatase kiềm trong huyết thanh (tăng hoạt động chuyển hóa của xương) nhưng GGT và PO4 trong huyết thanh thường bình thường. Canxi máu thường bình thường nhưng có thể tăng trong trường hợp bất động hoặc cường giáp. Nếu phosphatase kiềm không tăng hoặc không rõ có phải tăng do nguồn gốc xương hay không (ví dụ, nếu GGT tăng lên tương ứng với alkaline phosphatase), có thể cần định lượng thành phần phosphatase kiềm đặc hiệu xương. Các chất đánh dấu quá trình chu chuyển xương trong huyết thanh như procollagen type I intact N-terminal propeptide (PINP) và C-telopeptide cross-links (CTX), có thể tăng (2). Một số trường hợp, sự gia tăng quá trình dị hóa của xương tăng, thể hiện bằng tăng các dấu ấn chuyển hóa collagen của xương ở trong nước tiểu (ví dụ như pyridinoline cross-links), giúp xác định tình trạng tăng chu chuyển xương.
Tài liệu tham khảo về chẩn đoán
-
2. Shankar S, Hosking DJ: Biochemical assessment of Paget's disease of bone. J Bone Miner Res 21 Suppl 2:P22–P27, 2006. doi: 10.1359/jbmr.06s204.
Điều trị
Điều trị hỗ trợ bệnh Paget xương bao gồm các thuốc giảm đau hoặc NSAIDs nếu bệnh nhân đau. Phẫu thuật chỉnh hình giúp điều chỉnh dáng đi ở bệnh nhân chân vòng kiềng. Một số bệnh nhân cần phẫu thuật chỉnh hình (ví dụ: thay khớp háng hoặc khớp gối, giải phóng chèn ép tủy sống). Nên tập luyện các bài tập chịu trọng lực, tránh bất động.
Trường hợp bệnh khu trú, không có triệu chứng có thể không cần phải điều trị.
Điều trị thuốc
Các thuốc ức chế hoạt động của hủy cốt bào. Được chỉ định trong những trường hợp dưới đây:
-
Phòng hoặc làm giảm tiến triển của các biến chứng (như điếc, biến dạng xương, thoái hóa khớp, yếu hoặc liệt hai chân do bệnh Paget cột sống hoặc các tổn thương thần kinh khác, đặc biệt là ở nơi phẫu thuật kém phát triển)
-
Điều trị đau do bệnh Paget chứ không phải do nguyên nhân khác (như thoái hóa khớp)
-
Phòng hoặc giảm thiểu tối đa tình trạng chảy máu có thể xảy ra trong quá trình phẫu thuật chỉnh hình
-
Làm giảm hoạt động quá mức của hủy cốt bào khi phosphatase kiềm trong huyết thanh (nguồn gốc xương) tăng > 2 lần giá trị bình thường, ngay cả khi không có triệu chứng
Mặc dù tiến triển của bệnh có thể chậm lại, nhưng có các tổn thương (như biến dạng, thoái hóa khớp, điếc, chèn ép thần kinh) là không hồi phục.
Một số bisphosphonat có sẵn và là thuốc được lựa chọn (xem Bảng: Thuốc điều trị bệnh Paget). Các amino-bisphosphonate ( các bisphosphonate gắn với một nguyên tử nitơ), đặc biệt là zolendronat, có hiệu quả hơn trong việc làm giảm các dấu ấn của hoạt động bệnh và hiệu quả kéo dài hơn (3). Amino-bisphosphonates là thuốc được chỉ định đầu tiên để điều trị bệnh Paget xương, trong khi các bisphosphonat đơn thuần (bisphosphonat không có thêm một nguyên tử nitơ) là thuốc được lựa chọn thứ 2.
Calcitonin cá hồi tổng hợp là một lựa chọn thay thế cho các bisphosphonat ở bệnh nhân không dung nạp hoặc kháng thuốc. Đối với bệnh nhân có chống chỉ định với bisphosphonat, các báo cáo trường hợp bệnh cho thấy denosumab cũng có thể là một lựa chọn thay thế cho bisphosphonat (4).
Do chu chuyển xương tăng nên bệnh nhân cần đảm bảo cung cấp đủ lượng canxi, vitamin D và các chất dinh dưỡng.
Thuốc điều trị bệnh Paget
Tài liệu tham khảo phần điều trị
-
3. Reid IR, Lyles K, Su G, et al: A single infusion of zoledronic acid produces sustained remissions in Paget disease: Data to 6.5 years. J Bone Miner Res 26(9):2261–2270, 2011. doi: 10.1002 / jbmr.438.
-
4. Reid IR, Sharma S, Kalluru R, Eagleton C: Treatment of Paget's disease of bone with denosumab: Case report and literature review. Calcif Tissue Int 99(3):322–325, 2016. doi: 10.1007/s00223-016-0150-6.
Những điểm chính
-
Bệnh Paget xương là một bệnh phổ biến và thường không có triệu chứng, đặc biệt là ở người lớn tuổi.
-
Các biến chứng có thể bao gồm thoái hóa khớp, gãy xương, chèn ép thần kinh, ung thư xương và hiếm khi tăng canxi máu,
-
Các biến chứng khi điều trị bệnh Paget xương bằng bisphosphonat bao gồm cường cận giáp và hạ canxi máu.
-
Chẩn đoán xác định bằng chụp Xquang với các dấu hiệu như xơ xương, bè xương thô, vỏ xương dày, cong xương hoặc phì đại xương.
-
Điều trị đầu tay là zolendronat hoặc một amino-bisphosphonat khác (alendronat, pamidronat hoặc risedronat).