Điều trị COPD ổn định

TheoRobert A. Wise, MD, Johns Hopkins Asthma and Allergy Center
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 06 2022

Quản lý COPD bao gồm điều trị bệnh giai đoạn ổn định và điều trị các đợt cấp.

Điều trị bệnh COPD giai đoạn ổn định nhằm ngăn ngừa các đợt cấp và cải thiện chức năng sinh lý phổi thông qua

Phẫu thuật điều trị COPD được chỉ định cho một số bệnh nhân. Điều này có thể bao gồm các thủ thuật giảm thể tích phổi hoặc ghép phổi.

Bỏ hút thuốc

Bỏ hút thuốc là việc cực kỳ khó khăn và cực kỳ quan trọng; nó làm giảm chậm quá trình suy giảm FEV (Xem bảng Thay đổi chức năng hô hấp ở bệnh nhân bỏ thuốc lá) và tăng tỷ lệ sống còn lâu dài. Sử dụng đồng thời nhiều chiến lược là có hiệu quả nhất:

  • Xác định ngày bỏ thuốc lá

  • Kỹ thuật sửa đổi hành vi

  • Thảo luận nhóm

  • Liệu pháp thay thế nicotine (bằng kẹo cao su, miếng dán da, thuốc hít, thuốc viên hoặc xịt mũi)

  • Varenicline hoặc bupropion

  • Bác sĩ khuyến khích

Tỷ lệ bỏ > 50% ở thời điểm 1 năm chưa được chứng minh ngay cả với những can thiệp hiệu quả nhất như sử dụng bupropion kết hợp với thay thế nicotin hoặc chỉ sử dụng varenicline đơn độc.

Thay đổi chức năng phổi (phần trăm của FEV1 dự đoán) ở bệnh nhân bỏ hút thuốc so với những người tiếp tục hút

Trong năm đầu tiên, chức năng phổi được cải thiện ở bệnh nhân bỏ hút thuốc và giảm ở những người tiếp tục. Sau đó, tỷ lệ suy giảm ở những người tiếp tục hút thuốc là gấp đôi so với những người bỏ thuốc lá. Chức năng suy giảm ở những người tái hút thuốc và cải thiện ở những người bỏ thuốc lá bất kể khi nào xảy ra sư thay đổi. Dựa trên dữ liệu từ Scanlon PD et al: Smoking cessation and lung function in mild-to-moderate chronic obstructive pulmonary disease; the Lung Health Study. American Journal of Respiratory and Critical Care Medicine 161:381–390, 2000.

Điều trị bằng thuốc cho COPD ổn định

Khuyến cáo liệu pháp dùng thuốc được tóm tắt trong bảng Điều trị COPD bằng thuốc.

Thuốc giãn phế quản dạng hít là thuốc chính để quản lý COPD; thuốc bao gồm

  • Chất chủ vận beta

  • Thuốc kháng cholinergic (antimuscarinics)

Hai loại thuốc này có hiệu quả tương đương. Bệnh nhân mắc bệnh nhẹ chỉ được điều trị khi có triệu chứng. Bệnh nhân bị COPD từ trung bình đến nặng nên dùng thuốc từ một hoặc cả hai nhóm này thường xuyên để cải thiện chức năng phổi và tăng khả năng hoạt động.

Tần suất các đợt cấp có thể giảm với việc sử dụng thuốc kháng cholinergic, corticosteroid dạng hít, hoặc các chất chủ vận beta kéo dài. Tuy nhiên, không có bằng chứng cho thấy sử dụng thuốc giãn phế quản thông thường làm chậm sự suy giảm chức năng phổi. Sự lựa chọn ban đầu giữa các chất chủ vận beta tác dụng ngắn, các chất chủ vận beta tác dụng kéo dài, thuốc kháng cholinergic, phối hợp chủ vận beta và kháng cholinergic thường là vấn đề chi phí và thuận tiện cho những sở thích và triệu chứng của bệnh nhân.

Đối với việc điều trị bệnh giai ổn định mạn tính tại nhà, dùng thuốc bình xịt định liều hoặc thuốc hít bột khô được ưu tiên sử dụng hơn thuốc dạng khí dung; máy khí dung ở nhà có thể bị nhiễm bẩn do làm sạch và làm khô không đầy đủ. Vì vậy, máy khí dung nên được dành riêng cho những người không thể phối hợp đồng thì xịt - hít với bình xịt định liều hoặc không thể hít đủ lực với bình hít bột khô.

Đối với bình xịt định liều, bệnh nhân nên được hướng dẫn thở ra hết dung tích cặn chức năng, hít phải bình xịt từ từ để đạt được tổng thể phổi và nín thở từ 3 đến 4 giây trước khi thở ra. Các buồng đệm giúp đảm bảo phân phối thuốc tốt nhất tới đường thở nhỏ và làm giảm tầm quan trọng của phối hợp đồng thì việc xịt thuốc và hít vào của bệnh nhân. Một số buồng đệm cảnh báo bệnh nhân nếu họ đang hít vào quá nhanh. Các loại bình xịt định liều mới hoặc không được sử dụng gần đây cần 2 đến 3 liều lót (các nhà sản xuất khác nhau có những khuyến cáo khác nhau cho những gì được coi là "không được sử dụng gần đây", dao động từ 3 đến 14 ngày).

Bảng

Chất chủ vận beta

Các chất chủ vận beta gây giãn cơ trơn phế quản và làm tăng độ thanh thải chất nhầy của niêm mạc. Bình xịt Albuterol, 2 liều (90 đến 100 mcg/liều) hít từ bình xịt định liều 4 đến 6 lần/ngày khi cần, thường là thuốc được lựa chọn.

Thuốc chủ vận beta tác dụng kéo dài thích hợp hơn cho bệnh nhân có triệu chứng ban đêm hoặc cho những người thấy bất tiện khi dùng thuốc nhiều lần. Các lựa chọn bao gồm bột thuốc salmeterol, 1 nhát (50 mcg) hít 2 lần/ngày, indacaterol 1 nhát (75 mcg) hít 1 lần/ngày (150 mcg 1 lần/ngày ở Châu Âu) và olodaterol 2 nhát 1 lần/ngày một lần vào cùng một thời điểm mỗi ngày. Vilanterol có sẵn dưới dạng phối hợp với corticosteroid dạng hít. Cũng có sẵn là các dạng thuốc khí dung của arformoterol và formoterol. Bình hít bột khô có thể có hiệu quả hơn cho những bệnh nhân gặp khó khăn trong việc phối hợp sử dụng bình xịt định liều.

Bệnh nhân nên được dạy về sự khác nhau giữa thuốc tác dụng ngắn và thuốc có tác dụng kéo dài, bởi vì các loại thuốc tác dụng kéo dài được sử dụng khi cần thiết hoặc nhiều hơn 2 lần/ngày làm tăng nguy cơ rối loạn nhịp tim.

Tác dụng ngoại ý thường xuất phát từ việc sử dụng bất kỳ chất chủ vận beta nào bao gồm run, lo lắng, nhịp tim nhanh và giảm kali máu nhẹ, tạm thời.

Thuốc kháng cholinergic

Thuốc kháng cholinergic (antimuscarinics) làm giãn cơ trơn phế quản thông qua sự ức chế cạnh tranh các thụ thể muscarinic (M1, M2, và M3).

Ipratropium là thuốc kháng cholinergic tác dụng ngắn; liều là từ 2 đến 4 lần xịt (17 mcg/lần xịt) từ một bình xịt định liều, 4 đến 6 giờ một lần. Ipratropium khởi phát tác dụng chậm hơn (trong vòng 30 phút, hiệu quả cao nhất trong 1 đến 2 giờ), vì vậy một chất chủ vận beta thường được kê đơn với nó là một thuốc hít kết hợp hoặc như một thuốc riêng biệt dùng khi cần.

Tiotropium là thuốc kháng cholinergic bậc bốn tác dụng kéo dài được hít dưới dạng bột (18 mcg/lần xịt) và thuốc hít dạng sương nhẹ (2,5 mcg/lần xịt). Liều là 1 nhát (18 mcg), 1 lần/ngày bằng ống hít bột thuốc khô và 2 nhát (5 mcg), 1 lần/ngày bằng ống hít sương nhẹ. Aclidinium bromide có sẵn với dạng bình hít bột khô đa liều. Liều là 1 nhát (400 mcg/lần xịt) 2 lần/ngày. Aclidinium cũng có dưới dạng phối hợp với thuốc chủ vận beta tác dụng kéo dài dưới dạng ống hít bột thuốc khô. Umeclidinium có thể được sử dụng 1 lần/ngày phối hợp với vilanterol (một chất chủ vận beta-tác dụng kéo dài) trong một bình hít bột thuốc khô. Glycopyrrolate (thuốc kháng cholinergic) có thể được sử dụng 2 lần/ngày dưới dạng phối hợp với indacaterol hoặc formoterol (các thuốc chủ vận beta tác dụng kéo dài) trong một bình hít bột thuốc khô hoặc bình xịt định liều. Revefenacin được dùng mỗi ngày một lần qua máy phun sương.

Tác dụng bất lợi của thuốc chống cholinergic là giãn đồng tử (và nguy cơ khởi phát hoặc làm nặng hơn tình trạng tăng nhãn áp góc đóng cấp), bí đái và khô miệng.

Corticosteroid dạng hít

Corticosteroid thường là một phần của điều trị. Các thuốc corticosteroid dạng hít có thể làm giảm đáp ứng viêm đường hô hấp, điều hòa ngược thụ thể beta, và ức chế tiết leukotriene và cytokine. Chúng không làm thay đổi quá trình suy giảm chức năng phổi ở những bệnh nhân COPD tiếp tục hút thuốc, nhưng chúng làm giảm triệu chứng và cải thiện chức năng phổi trong thời gian ngắn ở một số bệnh nhân, tăng tác dụng của thuốc giãn phế quản và có thể làm giảm tần suất đợt cấp COPD. Chúng được chỉ định cho những bệnh nhân đã có nhiều đợt cấp hoặc các triệu chứng mặc dù điều trị giãn phế quản phù hợp tối ưu. Corticosteroid dạng hít có lợi nhất ở bệnh nhân bị tăng bạch cầu ái toan. Ở những bệnh nhân bị đợt cấp, thêm corticosteroid dạng hít làm giảm tần suất bị đợt cấp và kéo dài thời gian sống thêm (1, 2). Liều phụ thuộc vào thuốc; ví dụ như fluticasone 500 đến 1000 mcg/ngày và beclomethasone 400-2000 mcg/ngày.

Nguy cơ lâu dài của corticosteroid dạng hít ở người cao tuổi không được chứng minh nhưng có thể bao gồm loãng xương, đục thủy tinh thể, và tăng nguy cơ viêm phổi không gây tử vong. Do đó, những người sử dụng lâu dài nên kiểm tra định kỳ về nhãn khoa và đo mật độ xương nếu được chỉ định (ví dụ: tiền sử thay đổi thị lực ban đêm, ốm yếu hoặc gãy xương) và có thể nên được bổ sung canxi, vitamin D và bisphosphonate theo chỉ định.

Có thể cần giảm liều của liệu pháp corticosteroid dạng hít nếu bệnh nhân bị viêm phổi hoặc không đáp ứng với điều trị.

Kết hợp của một chất chủ vận beta-tác dụng kéo dài và corticosteroid dạng hít có hiệu quả hơn dùng đơn độc trong điều trị bệnh giai đoạn ổn định.

Corticosteroid đường uống hoặc hệ thống thường không được sử dụng để điều trị COPD giai đoạn ổn định.

Theophylline

Theophylline chỉ đóng một vai trò nhỏ trong điều trị COPD giai đoạn ổn định khi mà có các loại thuốc khác an toàn và hiệu quả hơn. Theophylline làm giảm co thắt cơ, tăng cường độ thanh thải niêm mạc, cải thiện chức năng tâm thất phải, giảm sức đề kháng mạch máu phổi và áp lực động mạch. Cơ chế hoạt động của nó không được hiểu rõ nhưng khác với các nhóm chủ vận beta-2 và kháng cholinergic. Vai trò của nó trong việc cải thiện chức năng cơ hoành và khó thở trong khi tập thể dục còn gây tranh cãi.

Theophylline có thể được sử dụng cho những bệnh nhân không đáp ứng đầy đủ thuốc hít và đã cho thấy lợi ích cải thiện triệu chứng từ một thử nghiệm của thuốc. Nồng độ thuốc trong huyết thanh không cần phải được theo dõi trừ khi bệnh nhân không đáp ứng với thuốc, xuất hiện các triệu chứng ngộ độc thuốc, hoặc nghi ngờ tuân thủ dùng thuốc; các chế phẩm theophylline đường uống phóng thích chậm, đòi hỏi liều lượng ít hơn thường xuyên, tăng cường tuân thủ.

Độc tính là phổ biến bao gồm mất ngủ và cảm giác nôn nao, thậm chí cả khi nồng độ thuốc trong máu thấp. Tác dụng bất lợi nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như loạn nhịp trên thất và loạn nhịp thất và co giật, có xu hướng xảy ra ở mức nồng độ trong máu > 20 mg/L (111 micromol/L).

Sự chuyển hóa của theophylline ở gan thay đổi rất nhiều và bị ảnh hưởng bởi các yếu tố di truyền, tuổi tác, hút thuốc lá, rối loạn chức năng gan và một số loại thuốc như kháng sinh macrolide và fluoroquinolone và thuốc kháng histamine 2.

Chất ức chế phosphateiesterase-4

Phosphodiesterase-4 là các chất ức chế phosphodiesterase ở phổi đặc hiệu hơn so với theophylline và ít tác dụng phụ. Chúng có tác dụng chống viêm và là thuốc giãn phế quản nhẹ. Các thuốc ức chế Phosphodiesterase-4 như roflumilast có thể được sử dụng cùng với các thuốc giãn phế quản khác để làm giảm đợt cấp của bệnh nhân bị COPD có viêm phế quản mạn tính. Roflumilast nên được bắt đầu với liều uống 250 mcg 1 lần/ngày và tăng lên đến 500 mcg 1 lần/ngày nếu dung nạp.

Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm buồn nôn, nhức đầu, và giảm cân, nhưng những ảnh hưởng này có thể giảm dần khi tiếp tục sử dụng.

Kháng sinh nhóm macrolide

Liệu pháp azithromycin kéo dài là một biện pháp bổ sung hiệu quả để ngăn ngừa đợt cấp của COPD ở những bệnh nhân có xu hướng bị lặp đi lặp lại nhiều lần, đặc biệt là những người không hút thuốc. Một liều 250 mg uống 1 lần/ngày đã chứng minh hiệu quả. Erythromycin 250 mg uống 2 lần hoặc 3 lần/ngày cũng cho thấy hiệu quả.

Tài liệu tham khảo điều trị bằng thuốc

  1. 1. Lipson DA, Crim C, Criner GJ, et al: Reduction in all-cause mortality with fluticasone furoate/umeclidinium/vilanterol in patients with chronic obstructive pulmonary disease. Am J Respir Crit Care Med 201(12):1508–1516, 2020. doi: 10.1164/rccm.201911-2207OC

  2. 2. Rabe KF, Martinez FJ, Ferguson GT, et al: Triple inhaled therapy at two glucocorticoid doses in moderate-to-very-severe COPD. N Engl J Med 383(1):35–48, 2020. doi: 10.1056/NEJMoa1916046

Liệu pháp oxy cho COPD ổn định

Liệu pháp oxy dài hạn kéo dài cuộc sống ở bệnh nhân COPD có PaO2 thường xuyên < 55 mm Hg. Việc sử dụng liên tục 24 giờ hiệu quả hơn so với thở 12 giờ về ban đêm. Liệu pháp oxy thực hiện như sau:

  • Đưa hematocrit về mức bình thường

  • Cải thiện các yếu tố tâm thần kinh, có thể bằng cách tạo điều kiện cho giấc ngủ

  • Cải thiện các bất thường về huyết động học phổi

  • Tăng khả năng gắng sức ở nhiều bệnh nhân

Độ bão hòa oxy cần được đo trong quá trình tập thể dục và khi nghỉ ngơi. Tương tự như vậy, một nghiên cứu về giấc ngủ cần phải được cân nhắc cho những bệnh nhân bị COPD tiến triển không đáp ứng các tiêu chuẩn cho liệu pháp oxy lâu dài khi họ thức (xem bảng Chỉ định cho liệu pháp oxy lâu dài ở bệnh nhân COPD) nhưng đánh giá lâm sàng của họ cho thấy tăng áp động mạch phổi ở những bệnh nhân này khi không có tình trạng thiếu oxy máu vào ban ngày. Thở oxy về đêm có thể được chỉ định nếu một nghiên cứu về giấc ngủ cho thấy có giai đoạn bão hòa oxy 88%. Điều trị như vậy ngăn ngừa sự tiến triển của tăng áp động mạch phổi, nhưng những ảnh hưởng của nó đối với sự sống còn là không rõ ràng. Bệnh nhân bị giảm oxy máu mức trung bình trên 88% hoặc giảm độ bão hòa oxy khi gắng sức có thể có lợi ích toàn thân với oxy, nhưng không cải thiện tỷ lệ sống sót và giảm tỷ lệ nhập viện (1).

Một số bệnh nhân cần thở oxy trong quá trình đi máy bay bởi vì áp suất cabin trên máy bay thương mại thấp hơn áp suất không khí biển (thường là từ 1830 đến 2400 m [6000 đến 8000 ft]). Bệnh nhân COPD có tình trạng cacbon dioxit huyết bình thường có PaO2 > 68 mm Hg ở mực nước biển thường có PaO2 trên máy bay > 50 mm Hg và không cần bổ sung oxy. Tất cả bệnh nhân COPD với PaO2 68 mmHg ở mực nước biển, tăng Khí carbonic, thiếu máu đáng kể (Hemtocrit < 30), hoặc có bệnh tim mạch hoặc rối loạn mạch máu não đồng mắc nên sử dụng oxy bổ sung trong các chuyến bay dài và phải thông báo cho hãng hàng không khi đặt chỗ. Giờ đây, máy tạo oxy di động đã được phê duyệt phổ biến ở khắp nơi, rất ít hãng hàng không vẫn cung cấp oxy. Bệnh nhân nên thuê hoặc mua một máy tạo oxy di động để sử dụng trong quá trình di chuyển bằng máy bay, bao gồm đủ pin dự phòng để tính thời gian chuyến bay và các trường hợp bị chậm trễ có thể xảy ra.

Bảng

Quản lý oxy

Oxy được cung cấp bởi dây gọng mũi với tốc độ dòng chảy đủ để đạt được PaO2 > 60 mm Hg (bão hòa oxy > 90%), thông thường 3 L/phút lúc nghỉ (thường cao hơn ở độ cao lớn hơn, chẳng hạn như ở Denver). Oxy được cung cấp bởi các máy chiết suất oxy điện tử, các hệ thống oxy lỏng, hoặc các bình khí nén. Máy chiết suất cố định, có khả năng di chuyển hạn chế nhưng ít tốn kém nhất, thích hợp cho những bệnh nhân dành phần lớn thời gian ở nhà. Những bệnh nhân này cần có bình chứa oxy nhỏ để dự phòng trong trường hợp bị mất điện và để sử dụng khi di chuyển. Máy chiết suất oxy cầm tay có thể di động được dùng cho những bệnh nhân không cần oxy liều cao.

Một hệ thống oxy lỏng là phù hợp cho những bệnh nhân dành nhiều thời gian ra khỏi nhà của họ. Các hộp đựng oxy lỏng dễ vận chuyển và có dung tích lớn hơn bình chứa khí nén. Các binh chứa oxy nén lớn là cách cung cấp oxy đắt nhất và chỉ nên sử dụng nếu không có nguồn nào khác. Tất cả bệnh nhân phải được dạy về nguy cơ của việc hút thuốc trong khi sử dụng oxy.

Các thiết bị dự trữ oxy khác nhau có thể giảm lượng oxy được sử dụng bởi bệnh nhân, hoặc bằng cách sử dụng một hệ thống hồ chứa hoặc bằng cách chỉ cho phép lưu thông khí oxy chỉ trong thì hít vào. Các hệ thống với các thiết bị này hiệu chỉnh sự thiếu oxy máu cũng như các thiết bị cung cấp dòng liên tục. Tuy nhiên, thiết bị tạo dòng ngắt quãng có thể không hiệu quả bằng dòng liên tục đối với tình trạng giảm oxy máu do gắng sức.

Tài liệu tham khảo về liệu pháp oxy

  1. 1. Long-Term Oxygen Treatment Trial Research Group: A randomized trial of long-term oxygen for COPD with moderate desaturation. N Engl J Med 375:1617–1627, 2016.

Tiêm chủng

Tất cả bệnh nhân COPD nên được tiêm phòng cúm hằng năm. Nếu bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) khiến họ có nguy cơ cao bị biến chứng hô hấp do cúm, thì nên điều trị dự phòng bằng thuốc ức chế neuraminidase (oseltamivir hoặc zanamivir), sau khi tiếp xúc gần với người bị nhiễm cúm. Nên bắt đầu điều trị bằng thuốc ức chế neuraminidase khi có dấu hiệu đầu tiên của bệnh giống cúm và trong vòng 2 ngày sau khi tiếp xúc. Ngoài ra, baloxavir marboxil, một chất ức chế endonuclease, có thể được xem xét cho bệnh cúm không biến chứng ở bệnh nhân ≥ 12 tuổi đã có triệu chứng không quá 48 giờ.

Vắc-xin polysaccharidevắc-xin liên hợp phế cầu nên được thực hiện bởi vì chúng có hiệu quả trong việc giảm viêm phổi cộng đồng và nhiễm trùng phế cầu xâm lấn ở người lớn tuổi.

Dinh dưỡng trong COPD ổn định

Bệnh nhân COPD có nguy cơ sút cân và thiếu dinh dưỡng do nhu cầu năng lượng cao hơn trong sinh hoạt hàng ngày; giảm lượng calo cần ăn vào vì khó thở; và tác dụng tăng dị hóa của các cytokine viêm như là yếu tối hoại tử khối u (TNF)-alpha. Sức mạnh của cơ và hiệu quả sử dụng oxy bị suy giảm. Bệnh nhân có tình trạng dinh dưỡng kém có tiên lượng xấu hơn, nên thận trọng khi đề nghị một chế độ ăn uống cân bằng với lượng calo thích hợp cùng với tập thể dục để ngăn ngừa hoặc đảo ngược tình trạng suy dinh dưỡng và teo cơ. Chia nhỏ bữa ăn có thể hữu ích.

Tăng cân quá mức cần tránh, và bệnh nhân béo phì nên cố gắng giảm dần lượng mỡ trong cơ thể.

Các nghiên cứu về bổ sung dinh dưỡng đơn độc không cho thấy sự cải thiện chức năng phổi hoặc khả năng gắng sức. Các thử nghiệm về các chất kích thích sự thèm ăn, steroid đồng hoá, bổ sung hormon tăng trưởng và các chất đối kháng TNF trong việc làm giảm tình trạng suy dinh dưỡng và cải thiện tình trạng chức năng và tiên lượng COPD đã thất bại.

Phục hồi chức năng phổi khi COPD ổn định

Chương trình phục hồi chức năng hô hấp có hiệu quả bổ sung với điều trị thuốc trong cải thiện chức năng thể chất; nhiều bệnh viện và các tổ chức chăm sóc sức khỏe cung cấp các chương trình phục hồi chức năng đa ngành chính thức. Phục hồi chức năng hô hấp bao gồm tập thể dục, giáo dục và can thiệp hành vi. Điều trị phải được cá nhân hoá; bệnh nhân và thành viên trong gia đình được dạy về COPD và điều trị thuốc, và bệnh nhân được khuyến khích chịu trách nhiệm về chăm sóc cá nhân càng nhiều càng tốt.

Lợi ích của việc phục hồi là bệnh nhân sẽ tự lập hơn, nâng cao chất lượng cuộc sống và khả năng gắng sức. Phục hồi chức năng hô hấp điển hình thường không cải thiện chức năng phổi. Một chương trình phục hồi chức năng được tích hợp cẩn thận giúp bệnh nhân COPD nặng phù hợp với các hạn chế về sinh lý trong khi mang lại các hi vọng cải thiện trong thực tế. Bệnh nhân bị bệnh nặng cần tối thiểu là 3 tháng tập phục hồi để có hiệu quả và nên tiếp tục với các chương trình duy trì.

Một chương trình tập thể dục có thể hữu ích trong nhà, trong bệnh viện, hoặc ở các cơ sở giáo dục. Tập thể dục có bài tập có thể cải thiện sự suy yếu cơ xương vì không vận động hoặc phải nằm viện lâu ngày vì suy hô hấp. Tập luyện cụ thể các cơ hô hấp ít hữu ích hơn tập thể dục nhịp điệu nói chung.

Một chương trình đào tạo điển hình bắt đầu với việc đi bộ chậm trên máy chạy bộ hoặc đạp xe không tải trên máy tập trong vài phút. Thời gian và khối lượng tập thể dục tăng dần từ 4 đến 6 tuần cho đến khi bệnh nhân có thể tập thể dục trong khoảng từ 20 đến 30 phút không nghỉ với mức độ khó thở có thể kiểm soát được. Bệnh nhân COPD rất nặng thường có thể đạt được một chế độ tập thể dục đi bộ trong 30 phút ở tốc độ 1 đến 2 mph (1,6 đến 3,2 km/giờ). Tập thể dục nên được thực hiện 3 đến 4 lần/tuần để duy trì mức độ tập luyện phù hợp. Độ bão hòa oxy được theo dõi, và oxy bổ sung được cung cấp khi cần thiết.

Tập luyện với kháng lực chi trên giúp bệnh nhân làm các công việc hàng ngày (ví dụ như tắm, mặc quần áo, làm sạch nhà cửa). Lợi ích thông thường của tập thể dục là cải thiện vừa phải sức mạnh chi dưới, độ bền, và tiêu thụ oxy tối đa.

Bệnh nhân nên được hướng dẫn cách duy trì năng lượng trong các hoạt động sinh hoạt hàng ngày và để theo kịp các hoạt động của họ. Những khó khăn trong hoạt động tình dục cần được thảo luận và nên đưa ra lời khuyên về cách sử dụng các kỹ thuật duy trì năng lượng để thỏa mãn tình dục.

Phẫu thuật khi COPD ổn định

Các giải pháp phẫu thuật để điều trị COPD nặng bao gồm

  • Giảm thể tích phổi

  • Ghép phổi

Phẫu thuật giảm thể tích phổi

Phẫu thuật giảm thể tích phổi bao gồm việc cắt bỏ các vùng khí phế thũng không còn chức năng. Biện pháp này cải thiện chức năng phổi, khả năng gắng sức, và chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân nặng, chủ yếu là khí phế thũng thùy trên, có khả năng gắng sức thấp sau khi phục hồi chức năng hô hấp. Tỷ lệ tử vong tăng lên trong 90 ngày đầu sau phẫu thuật giảm thể tích phổi nhưng tỷ lệ sống cao hơn sau 5 năm.

Hiệu quả đối với các phép đo khí máu động mạch thay đổi và không thể dự đoán được, nhưng hầu hết bệnh nhân cần điều trị oxy trước khi phẫu thuật vẫn tiếp tục cần. Cải thiện ít hơn so với ghép phổi. Cơ chế cải thiện được cho là làm tăng khả năng co giãn của phổi và cải thiện chức năng cơ hoành.

Tử vong do phẫu thuật khoảng 5%. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân tốt nhất cho phẫu thuật giảm thể tích phổi là những bệnh nhân có FEV1 20 đến 40% dự đoán, DLCO > 20% dự đoán, suy giảm đáng kể khả năng gắng sức, bệnh phổi không đồng nhất trên CT với ưu thế ở thùy trên, PaCO2 < 50 mm Hg, và không tăng áp lực động mạch phổi nặng và bệnh lý mạch vành.

Hiếm khi, bệnh nhân có kén khí cực kỳ lớn mà làm giảm chức năng phổi. Những bệnh nhân này có thể được điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ các kén khí này, với kết quả giảm triệu chứng và cải thiện chức năng phổi. Nói chung, phẫu thuật cắt bỏ là có lợi nhất cho bệnh nhân với kén khí ảnh hưởng đến hơn một phần ba của một bên phổi và FEV1 khoảng một nửa giá trị dự đoán bình thường. Chức năng phổi được cải thiện có liên quan đến lượng mô phổi bình thường hoặc tối thiểu nhu mô phổi bệnh bị nén bởi kén khí bị cắt hoặc bị khí thũng nói chung. Chụp X-quang ngực và chụp CT là những xét nghiệm hữu ích nhất để xác định tình trạng chức năng của bệnh nhân là do kén khí lớn đè ép phổi hoặc là do tình trạng khí phế thũng nói chung. Giảm đáng kể DLCO (< 40% dự đoán) cho biết tình trạng khí phế thũng lan rộng và gợi ý tiên lượng kém do phẫu thuật cắt phổi.

Ghép phổi

Ghép phổi có thể là ghép một phổi hoặc cả 2 phổi. Các biến chứng khi phẫu thuật có xu hướng thấp hơn khi ghép một phổi, nhưng một số bằng chứng cho thấy thời gian sống sót tăng lên khi ghép cả hai phổi. Tiêu chuẩn để ghép là bệnh nhân < 65 tuổi với FEV1 <25% dự đoán sau khi test giãn phế quản hoặc tăng áp lực động mạch phổi nặng. Mục tiêu của việc ghép phổi là cải thiện chất lượng cuộc sống, bởi vì thời gian sống còn không nhất thiết phải tăng lên. Sự sống sót sau 5 năm sau khi ghép phổi ở khí phế thũng là 45 đến 60%. Ức chế miễn dịch suốt đời là cần thiết, kèm theo nguy cơ của nhiễm trùng cơ hội.

Van nội khí quản

Van nội khí quản gây ra xẹp phổi các vùng khí phế thũng ở những bệnh nhân được chọn không có thông khí bàng hệ ở những vùng này. Đặt một van nội khí quản là một thay thế cho phẫu thuật giảm thể tích phổi ở một số bệnh nhân. Phẫu thuật giảm thể tích phổi thường là hai bên, trong khi thủ thuật nội soi phế quản thường là một bên và do đó ít cải thiện hơn.

Những điểm chính

  • Giảm nhanh các triệu chứng của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính với các thuốc cường beta-adrenergic tác dụng ngắn ban đầu và làm giảm đợt cấp với corticosteroid dạng hít, các thuốc cường beta-adrenergic tác dụng kéo dài, các thuốc kháng cholinergic có tác dụng kéo dài hoặc kết hợp.

  • Khuyến khích bỏ thuốc lá bằng cách sử dụng nhiều biện pháp can thiệp (như thay đổi hành vi, các nhóm hỗ trợ, liệu pháp thay thế nicotin, liệu pháp dùng thuốc).

  • Tối ưu hóa việc sử dụng các biện pháp hỗ trợ (như dinh dưỡng, phục hồi chức năng hô hấp, tự tập thể dục).