Các biện pháp phục hồi chức năng trong điều trị đau và viêm

TheoSalvador E. Portugal, DO, New York University, Robert I. Grossman School of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 11 2023
Xem có gì mới trong chủ đề này

    Điều trị đau và viêm nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển và cải thiện sự phối hợp của cơ và khớp. Các phương pháp điều trị không dùng thuốc bao gồm tập thể dục trị liệu, chườm nóng, chườm lạnh, kích thích điện, kéo cổ tử cung, xoa bópchâm cứu. Những phương pháp điều trị này được sử dụng cho nhiều chứng rối loạn về cơ, gân và dây chằng (xem bảng Chỉ định điều trị đau không dùng thuốc). Việc sử dụng các phương thức này dựa trên sở thích của bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng cũng như đánh giá lâm sàng. Những phương thức này thường mang tính bổ trợ hơn là can thiệp duy nhất. Các phương pháp này thường được sử dụng trước và sau khi tập thể dục trị liệu và là một phần của chiến lược phục hồi chức năng. Đơn điều trị nên bao gồm:

    • Chẩn đoán

    • Loại hình điều trị (siêu âm, chườm nóng)

    • Vị trí điều trị (vai phải, lưng)

    • Tần suất (một lần/ngày)

    • Thời lượng (ví dụ: 10 ngày, 1 tuần)

    Bảng

    (Xem thêm Tổng quan về Phục hồi chức năngĐau.)

    Nhiệt

    Liệu pháp nhiệt gây giảm nhẹ triệu chứng tạm thời trong các chấn thương mạn tính và các bệnh lý viêm (ví dụ như bong gân, căng cơ, viêm bao gân, viêm xơ, co cứng cơ, viêm cơ, đau lưng, chấn thương cổ, các dạng viêm khớp, đau khớp, đau dây thần kinh). Nhiệt làm tăng lưu lượng máu và làm giãn các mô liên kết; đồng thời làm giảm co cứng khớp, giảm đau và co cơ, giảm viêm, phù nề và tràn dịch. Có thể sử dụng liệu pháp nhiệt nông (hồng ngoại, chườm nóng, parafin, thủy liệu pháp) hoặc nhiệt sâu (siêu âm). Cường độ và thời gian của các tác dụng sinh lý phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ mô, tốc độ gia tăng nhiệt, và diện tích vùng điều trị.

    Đèn hồng ngoại sử dụng nhiệt hồng ngoại, thường với thời gian 20 phút/ngày. Chống chỉ định bao gồm thiết bị kim loại được cấy ghép và suy giảm cảm giác da (đặc biệt là với nhiệt độ và đau). Cần thận trọng tránh bị bỏng.

    Túi chườm nóng được làm từ vật liệu vải bông chứa gel silicat; chúng được hâm nóng bằng cách đun sôi hoặc qua lò vi sóng, sau đó đắp lên da. Các túi chườm không nên được hâm quá nóng. Bọc túi chườm trong một vài lớp khăn giúp bảo vệ da khỏi bỏng. Chống chỉ định cũng giống với nhiệt hồng ngoại.

    Trong liệu pháp tắm parafin, vùng bị bệnh được ngâm, nhúng hoặc quét lớp sáp được làm nóng tới 49° C. Có thể giữ nhiệt bằng bọc khăn xung quanh vùng bôi paraffin trong vòng 20 phút. Parafin thường được áp dụng cho các khớp nhỏ - thông thường, bằng cách nhúng hoặc ngâm đối với bàn tay và bằng cách sơn đối với đầu gối hoặc khuỷu tay. Không nên dùng paraffin cho các vết thương hở hoặc cho bệnh nhân có tiền sử dị ứng paraffin. Tắm parafin đặc biệt hữu ích cho thoái hóa khớp bàn tay.

    Thủy liệu pháp có thể được sử dụng để gia tăng quá trình phục hồi tại vết thương. Dòng nước ấm lưu động sẽ kích thích tuần hoàn, từ đó dọn sạch tổn thương tại vết thương hoặc vết bỏng. Liệu pháp này thường được tiến hành trong bể Hubbard (một loại bồn xoáy công nghiệp kích thước lớn), sử dụng nước đun nóng đến 35,5 đến 37,7° C. Ngâm mình hoàn toàn trong nước đun đến 37,7 - 40° C cũng giúp làm giãn cơ và giảm đau. Thủy trị liệu tỏ ra đặc biệt hữu ích trong các bài tập tầm vận động.

    Liệu pháp điện nhiệt là phương pháp làm ấm các mô sử dụng trường điện từ dao động tần số cao dưới dạng sóng ngắn hoặc vi sóng. Những phương thức này không cho thấy hiệu quả cao hơn các liệu pháp nhiệt đơn giản, và hiện nay hiếm khi được sử dụng.

    Liệu pháp laser mức độ thấp

    Liệu pháp laser mức độ thấp (còn được gọi là laser lạnh) áp dụng năng lượng ánh sáng vào các mô sâu hơn và có thể giúp giảm đau cho nhiều tình trạng khác nhau, bao gồm bong gân, căng cơ, đau cổ và lưng, đau vai và đau cơ xơ hóa. Không nên sử dụng liệu pháp này trên mắt và cần có kính an toàn thích hợp. Liệu pháp này cũng không nên được sử dụng tại vị trí có khối u ác tính, trên thai nhi đang phát triển, trên máy điều hòa nhịp tim hoặc thiết bị cấy ghép khác hoặc trên tuyến giáp. Liệu pháp laser cường độ thấp cũng có thể gây co giật ở bệnh nhân động kinh nhạy cảm với ánh sáng và nên thận trọng khi sử dụng ở những bệnh nhân này. Mặc dù một số bằng chứng cho thấy lợi ích tiềm năng của liệu pháp laser cường độ thấp đối với các tình trạng cơ xương cụ thể, kết quả vẫn chưa thống nhất tùy thuộc vào tình trạng cụ thể đang được điều trị và so sánh điều trị.

    siêu âm

    Siêu âm sử dụng các sóng âm tần số cao để thâm nhập sâu (4-10 cm) vào mô; gây tác dụng nhiệt, cơ học, hóa học, và sinh học. Liệu pháp này được chỉ định trong điều trị viêm gân, viêm bao hoạt dịch, co rút, viêm xương khớp, chấn thương xương và hội chứng đau tại vùng phức tạp. Siêu âm không nên được sử dụng tại các mô thiếu máu, các vùng đã được gây tê hoặc có tình trạng nhiễm trùng cấp tính, đồng thời cũng không được sử dụng trong các trường hợp xuất huyết nội tạng hoặc ung thư. Siêu âm cũng không nên được sử dụng tại các vị trí mắt, não, tủy sống, tai, tim, cơ quan sinh dục, đám rối cánh tay, hoặc xương đang trong giai đoạn phục hồi.

    Lạnh

    Lựa chọn giữa phương pháp điều trị nhiệt nóng và nhiệt lạnh thường dựa vào kinh nghiệm. Khi liệu pháp nhiệt nóng không có hiệu quả, có thể áp dụng phương pháp nhiệt lạnh. Tuy nhiên, đối với tổn thương cấp tính hoặc đau, nhiệt lạnh tỏ ra tốt hơn liệu pháp nhiệt nóng. Lạnh có thể giúp giảm co thắt cơ, đau cơ hoặc đau do chấn thương, đau thắt lưng và viêm cấp tính; lạnh cũng có thể giúp gây tê cục bộ. Liệu pháp nhiệt lạnh thường được sử dụng trong vài giờ đầu tiên hoặc một ngày sau khi chấn thương; vì lý do đó, nó hiếm khi được sử dụng trong vật lý trị liệu.

    Có thể tiến hành nhiệt lạnh trị liệu cục bộ bằng cách sử dụng túi chườm đá, túi đá, hoặc các chất lỏng dễ bay hơi (ethyl chloride, phun hơi lạnh), để làm mát thông qua quá trình bay hơi. Sự lan truyền dòng nhiệt lạnh trên da phụ thuộc vào độ dày lớp biểu mô, vào mô mỡ và mô cơ nằm dưới, vào hàm lượng nước trong mô và dòng tuần hoàn tới mô đó. Cần cẩn thận để tránh gây tổn thương mô và hạ thân nhiệt. Liệu pháp nhiệt lạnh không nên được áp dụng trên các khu vực tưới máu kém.

    Kích thích điện

    Kích thích dây thần kinh bằng điện qua da (TENS) sử dụng dòng điện cường độ thấp, tần số thấp để giảm đau. Bệnh nhân chỉ có cảm giác kim châm nhẹ, không gây căng cơ tăng lên. Tùy thuộc vào mức độ đau, có thể kích thích từ 20 phút đến một vài giờ mỗi lần, vài lần mỗi ngày. Thông thường, bệnh nhân được hướng dẫn sử dụng thiết bị TENS và tự quyết định thời điểm điều trị. Liệu pháp TENS không nên được áp dụng trên hoặc gần khu vực nơi thiết bị điện tử được cấy ghép, vì TENS có thể làm cho thiết bị đó trục trặc. Liệu pháp này không nên được áp dụng trên mắt.

    Kéo giãn cột sống cổ

    Kéo cổ thường được chỉ định cho chứng đau cổ mạn tính do thoái hóa đốt sống cổ, bệnh lý rễ thần kinh cổ, chấn thương do chấn thương cổ hoặc vẹo cổ. Kéo giãn theo chiều thẳng đứng (bệnh nhân ở tư thế ngồi) có hiệu quả hơn so với kéo giãn theo chiều ngang (bệnh nhân nằm trên giường). Đối với cả lực kéo nhịp nhàng gián đoạn có động cơ và lực kéo tĩnh, lượng trọng lượng sử dụng khác nhau, nhưng nhìn chung phải mang lại mức độ kéo giãn nhẹ nhàng cho cơ cổ nhưng không gây đau. Nói chung, nên tránh kéo giãn quá mức cột sống cổ, bởi nó có thể làm tăng chèn ép rễ thần kinh trong lỗ gian đốt sống. Kéo giãn thường được kết hợp với các biện pháp vật lý trị liệu khác, bao gồm các bài tập và kéo giãn bằng tay. Thường tránh dùng lực kéo ở những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp lâu năm hoặc các bệnh khớp có viêm khác liên quan đến cột sống cổ.

    Xoa bóp

    Xoa bóp có thể huy động các mô bị co rút, giảm đau, giảm sưng và chai cứng do chấn thương (ví dụ: gãy xương, chấn thương khớp, bong gân, căng cơ, bầm tím). Nên cân nhắc xoa bóp đối với các trường hợp đau thắt lưng, đau xơ cơ, liệt nửa người, đau cân cơ, bại não và cắt cụt chi. Không nên sử dung xoa bóp trong điều trị nhiễm trùng hoặc viêm huyết khối. Chỉ chuyên gia xoa bóp có chứng chỉ hoặc đã được chứng nhận mới được sử dụng xoa bóp để điều trị vì có sự khác biệt khác nhiều về mức độ tập huấn và kỹ năng của các chuyên gia xoa bóp.

    Châm cứu

    Trong châm cứu, những chiếc kim mỏng được đâm xuyên qua da tại các vị trí cụ thể trên cơ thể, thường ở xa vị trí đau. Châm cứu đôi khi được sử dụng phối hợp với các phương pháp điều trị khác để kiểm soát đau cấp tính và mạn tính.