Nhiễm Listeria ở trẻ sơ sinh

TheoBrenda L. Tesini, MD, University of Rochester School of Medicine and Dentistry
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 07 2022

Nhiễm Listeria là tình trạng nhiễm trùng mắc phải của trẻ sơ sinh qua nhau thai hoặc trong cuộc đẻ hoặc sau sinh. Triệu chứng là nhiễm khuẩn huyết. Chẩn đoán bằng cách nuôi cấy hoặc xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase của mẹ và trẻ sơ sinh. Điều trị là kháng sinh, ampicillin kết hợp với một aminoglycosid.

( Xem thêm Listeriosis ở người lớn và Tổng quan về nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh.)

Nhiễm Listeria monocytogenes trong bào thai có thể dẫn đến sự phát triển của các u hạt (ví dụ ở da, gan, tuyến thượng thận, mô bạch huyết, phổi và não). Nếu phát ban, nó được gọi là u hạt nhiễm trùng. Nếu phát ban, nó được gọi là u hạt nhiễm trùng Hít hoặc nuốt nước ối hoặc tiết dịch âm đạo có nhiễm khuẩn có thể dẫn đến nhiễm trùng chu sinh của phổi, biểu hiện trong vài ngày đầu sau với suy hô hấp, sốc, và suy đa tạng.

Phụ nữ mang thai thường bị nhiễm khuẩn Listeria do ăn phải thức ăn bị ô nhiễm. Nhiều loại thực phẩm đều có thể chứa và truyền L. monocytogenes, nhưng nhiễm trùng thường xảy ra qua việc ăn các sản phẩm sữa bị nhiễm, rau sống, thịt, hoặc, đặc biệt là các thực phẩm làm lạnh mà không cần nấu ăn trước khi ăn. Ô nhiễm được ưa chuộng bởi khả năng L. monocytogenes sống và phát triển ở nhiệt độ tủ lạnh.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh Listeriosis ở trẻ sơ sinh

Nhiễm trùng ở phụ nữ mang thai có thể không có triệu chứng hoặc có triệu chứng không đặc hiệu với tình trạng giống như mắc cúm.

Ở thai nhi và trẻ sơ sinh, biểu hiện lâm sàng phụ thuộc vào thời gian và đường lây nhiễm. Sảy thai hoặc sinh non trong trường hợp nhiễm trùng ối (đặc trưng với nước ối màu nâu, đặc quánh), thai chết lưu, hoặc nhiễm trùng huyết sơ sinh cũng thường gặp. Nhiễm trùng có thể rõ ràng trong vòng vài giờ hoặc vài ngày sau khi sinh (khởi phát sớm) hoặc có thể chậm đến vài tuần (khởi phát muộn).

Trẻ sơ sinh khởi phát bệnh sớm thường liên quan đến: cân nặng khi sinh thấp, biến chứng về sản khoa và thường biểu hiện triệu chứng nhiễm khuẩn huyết sớm sau khi sinh với suy sụp hô hấp tuần hoàn. Trẻ sơ sinh có biểu hiện muộn thường gặp ở trẻ sơ sinh đủ tháng khỏe mạnh biểu hiện với viêm màng não hoặc nhiễm trùng huyết.

Chẩn đoán bệnh Listeriosis sơ sinh

  • Nuôi cấy hoặc xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase (PCR) đối với máu, cổ tử cung và nước ối (nếu có) của phụ nữ mang thai bị sốt

  • Nuôi cấy hoặc PCR máu, dịch não tủy (CSF), dịch hút dạ dày, phân su và các mô bị nhiễm bệnh của trẻ sơ sinh bị bệnh

Cấy máu và dịch cổ tử cung cho bất kỳ phụ nữ có thai nào có sốt không rõ nguyên nhân và nuôi cấy hoặc PCR được xét nghiệm để phát hiện L. monocytogenes. Trẻ sơ sinh bị bệnh có mẹ bị bệnh listeriosis nên được đánh giá nhiễm khuẩn huyết, bao gồm cấy hoặc PCR máu cuống rốn và máu ngoại biên, xét nghiệm dịch não tủy, dịch dạ dày, phân su, hoặc bất kỳ bệnh phẩm có nguy cơ cao như: dịch cổ tử cung, âm đạo, các phần phụ của thai bao gồm nhau thai, dịch ối, màng ối (nếu có).

Xét nghiệm dịch não tủy có thể nhiều bạch cầu đơn nhân, hoặc bạch cầu đa nhân chiếm ưu thế. Nhuộm Gram thường âm tính nhưng có thể thấy các tế bào hạt, có thể thấy các vi khuẩn dạng trùng roi với nhuộm Gram thay đổi.

Trong trường hợp đó không nên bỏ qua mà coi như một dạng nhiễm trùng bội nhiễm. Để làm bảng trượt, các khuẩn lạc vi khuẩn được nuôi trên môi trường đặc, sau đó được trộn với nước muối và kiểm tra dưới kính hiển vi. L. monocytogenes có dạng chuyển động đặc biệt "end-over-end" "lật" do sự hiện diện của lông chuyển ở cả hai đầu. Xét nghiệm huyết thanh học không có giá trị.

Tiên lượng về bệnh Listeriosis sơ sinh

Tỷ lệ tử vong, dao động từ 10 đến 50%, cao hơn ở trẻ sơ sinh biểu hiện sớm.

Điều trị bệnh Listeriosis ở trẻ sơ sinh

  • Ampicillin kết hợp với một aminoglycosid

Điều trị trẻ sơ sinh là với ampicillin kêt hợp với aminoglycosid ( xem Bảng: Khuyến cáo liều đề nghị của một số thuốc kháng sinh dùng đường tĩnh mạch ở trẻ sơ sinh) và xem bảng Liều lượng khuyến nghị của các aminoglycoside chọn lọc cho trẻ sơ sinh). Thời gian điều trị 14 ngày thường đạt yêu cầu (21 ngày đối với viêm màng não), tuy nhiên thời gian tối ưu còn chưa rõ. Các loại thuốc có thể dùng khác bao gồm ampicillin hoặc penicillin với rifampin hoặc trimethoprim/sulfamethoxazole, trimethoprim/sulfamethoxazole một mình và meropenem, nhưng các thuốc này cưa được đánh giá kỹ.

Trẻ sơ sinh nhiễm khuẩn huyết cần các biện pháp khác. Trong trường hợp nhiễm trùng nặng, xem xét các vấn đề dẫn lưu ổ nhiễm trùng.

Phòng ngừa bệnh Listeriosis ở trẻ sơ sinh

Phụ nữ mang thai nên tránh các sản phẩm thực phẩm có nguy cơ cao bị ô nhiễm L. monocytogenes (ví dụ, các sản phẩm từ sữa chưa tiệt trùng, pho mát mềm, rau sống, thịt nguội chế biến sẵn và salad, thịt ướp lạnh hoặc hải sản hun khói). Việc xử lý thực phẩm phù hợp, đặc biệt là việc tách thịt không nấu chín từ các đồ vật khác trong quá trình chuẩn bị và rửa tay, dụng cụ, và máy cắt sau khi xử lý các món ăn chưa nấu chín là rất quan trọng.

Nếu nhiễm trùng trong thời kỳ mang thai được xác định, cần điều trị trước khi sinh hoặc trong dạ con để tránh lây truyền theo chiều dọc, tuy nhiên, hiệu quả của điều trị chưa được thống kê đầy đủ.

Những điểm chính

  • Nhiễm trùng có thể xảy ra trong tử cung hoặc khi sinh, và biểu hiện lâm sàng có thể xuất hiện trong vòng vài giờ hoặc ngày sinh (khởi phát sớm) hoặc có thể bị trì hoãn đến vài tuần (khởi phát chậm).

  • Nhiễm khuẩn do Listeria khởi phát sớm ngay sau khi sinh như tình trạng nhiễm trùng huyết với suy tình trạng suy hô hấp, suy tuần hoàn.

  • Nhiễm Listeria ở trẻ sơ sinh đủ tháng khỏe mạnh có thể biểu hiện muộn hơn với viêm màng não mủ hoặc nhiễm trùng huyết.

  • Thực hiện nuôi cấy hoặc xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase để tìm L. monocytogenes trên phụ nữ mang thai mắc bệnh sốt không rõ nguyên nhân và trẻ sơ sinh bị bệnh.

  • Điều trị với ampicillin kết hợp với một aminoglycosid.

  • Phụ nữ mang thai nên tránh các sản phẩm thực phẩm có thể bị ô nhiễm bởi L. monocytogenes.