Viêm não

TheoJohn E. Greenlee, MD, University of Utah Health
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 03 2022

Viêm não là tình trạng viêm nhu mô não do vi rút xâm nhập trực tiếp hoặc xảy ra như một biến chứng miễn dịch sau nhiễm trùng do phản ứng quá mẫn với vi rút hoặc một protein lạ khác. Triệu chứng bao gồm sốt, đau đầu và tình trạng tinh thần thay đổi, thường đi kèm với co giật hoặc thiếu sót thần kinh khu trú. Chẩn đoán cần phải phân tích dịch não tủy và chẩn đoán hình ảnh thần kinh. Điều trị bằng thuốc kháng vi rút khi có chỉ định (ví dụ, trong bệnh viêm não do vi rút herpes simplex) và nếu không thì sẽ là điều trị hỗ trợ.

(Xem thêm Giới thiệu về Nhiễm trùng não.)

Căn nguyên của viêm não

Nhiễm virut nguyên phát

Vi-rút gây viêm não nguyên phát xâm nhập trực tiếp vào não. Những nhiễm trùng này có thể

Viêm não arbovirus do muỗi lây truyền vào người trong mùa xuân, mùa hè và đầu mùa thu khi thời tiết ấm áp (xem bảng Một số virus gây viêm não). Tỷ lệ mắc ở Hoa Kỳ dao động từ 150 đến > 4000 trường hợp hàng năm, chủ yếu ở trẻ em. Hầu hết các trường hợp xảy ra trong các vụ dịch.

Bảng

Ở Mỹ, viêm não tản phát thường gặp do herpes simplex vi rút (HSV); vài trăm đến vài nghìn trường hợp xảy ra hàng năm. Hầu hết là do HSV-1, nhưng HSV-2 có thể phổ biến hơn ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Viêm não do HSV xuất hiện vào bất kỳ thời điểm nào trong năm, có xu hướng ảnh hưởng đến bệnh nhân < 20 hoặc > 40 năm, và thường gây tử vong nếu không được điều trị.

Bệnh dại vẫn là một nguyên nhân quan trọng gây ra viêm não ở các nước đang phát triển và vẫn gây ra một vài trường hợp viêm não ở Mỹ.

Viêm não cũng có thể xảy ra như một sự tái hoạt muộn của nhiễm virus tiềm ẩn hoặc cận lâm sàng. Các loại được biết đến nhiều nhất

Phản ứng miễn dịch

Viêm não có thể xảy ra như một biến chứng miễn dịch thứ phát của một số bệnh nhiễm vi rút hoặc tiêm chủng. Phản ứng viêm mất myelin của não và tủy sống có thể xảy ra 1 đến 3 tuần sau (như viêm não tủy rải rác cấp tính) Hệ miễn dịch sẽ tấn công các kháng nguyên của hệ thần kinh trung ương (CNS) giống với các protein của các tác nhân lây nhiễm. Nguyên nhân phổ biến nhất của biến chứng này thường là sởi, rubella, thủy đậu và quai bị (tất cả bây giờ không hay gặp vì tiêm chủng ở trẻ em đã phổ biến rộng rãi); vắc xin thủy đậu; vắc-xin virus sống (ví dụ, vắc-xin phòng bệnh dại trước đây được sản xuất từ não cừu hoặc dê). Ở Hoa Kỳ, hầu hết các trường hợp là do virus cúm A hoặc B, enterovirus, virus Epstein-Barr, viêm gan loại A hoặc viêm gan B, hoặc HIV. Viêm não qua trung gian miễn dịch cũng xảy ra ở bệnh nhân ung thư và các rối loạn tự miễn dịch khác.

Hiếm khi, viêm não rõ ràng đã phát triển ở những bệnh nhân bị COVID-19, do coronavirus gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng trong đại dịch mới (SARS-CoV2); cơ chế chưa rõ ràng, nhưng có thể có sự đóng góp về mặt miễn dịch học vào cơ chế gây viêm não rõ ràng, cũng như sự xâm nhập trực tiếp của vi rút vào não.

Bệnh não do các tự kháng thể đối với các protein màng tế bào thần kinh (ví dụ, các thụ thể N-methyl-d-aspartate [NMDA]) có thể biểu hiện giống bệnh viêm não do vi rút. Các nghiên cứu chỉ ra rằng viêm não do kháng NMDAR phổ biến hơn viêm não do vi rút. Viêm não Anti-NMDAR lần đầu tiên được mô tả ở phụ nữ trẻ bị u quái buồng trứng nhưng có thể xảy ra ở cả hai giới và ở mọi lứa tuổi.  Viêm não do kháng NMDAR cũng xảy ra như một biến chứng sau nhiễm trùng của viêm não do HSV, dẫn đến suy giảm chức năng trên lâm sàng trong vòng vài tuần sau khi nhiễm HSV.

Sinh lý bệnh của viêm não

Trong viêm não cấp, phản ứng viêm và phù nề xảy ra ở các khu vực bị nhiễm khuẩn trong toàn bộ bán cầu não, thân não, tiểu não, và đôi khi, cả tủy sống. Xuất huyết dạng chấm có thể biểu hiện ở những bệnh nhiễm trùng nặng. Sự xâm nhập trực tiếp của virut tới não thường gây tổn hại cho các nơ-ron, đôi khi tạo ra các thể vùi có thể nhìn thấy trên kính hiển vi. Nhiễm trùng nặng, đặc biệt là viêm não do vi rút herpes simplex (HSV) không được điều trị, có thể gây hoại tử xuất huyết não.

Viêm não tủy rải rác cấp tính được đặc trưng bởi nhiều ổ mất myelin quanh tĩnh mạch và không có virus trong não.

Các triệu chứng và dấu hiệu của viêm não

Các triệu chứng của viêm não bao gồm sốt, nhức đầu và tình trạng tâm thần bị thay đổi, thường kèm theo co giật và suy giảm thần kinh khu trú. Tiền triệu bệnh đường tiêu hóa (GI) hoặc đường hô hấp có thể xuất hiện trước những triệu chứng này. Các dấu hiệu màng não thường nhẹ và ít nổi bật hơn các biểu hiện khác.

Trạng thái động kinh, nhất là trạng thái động kinh co giật, hoặc hôn mê gợi ý viêm não nặng và tiên lượng xấu.

Các cơn động kinh khứu giác, biểu hiện dưới dạng cơn aura khứu giác như luồng hơi mùi hôi (trứng thối, thịt cháy), cho thấy sự ảnh hưởng tới thùy thái dương và gợi ý viêm não HSV.

Chẩn đoán viêm não

  • MRI

  • Xét nghiệm dịch não tủy (CSF)

Cần nghi ngờ viêm não ở những bệnh nhân có những thay đổi không thể giải thích về tình trạng tinh thần. Biểu hiện lâm sàng và chẩn đoán phân biệt có thể gợi ý các xét nghiệm chẩn đoán nhất định, nhưng chụp MRI và phân tích CSF (bao gồm phản ứng chuỗi polymerase [PCR] tìm HSV và các vi rút khác) thường được thực hiện, kèm theo các xét nghiệm khác (ví dụ xét nghiệm huyết thanh học) để xác định vi rút gây bệnh. Mặc dù làm nhiều xét nghiệm, nhưng nhiều trường hợp viêm não vẫn chưa rõ nguyên nhân.

Viêm não do cytomegalovirus nên được xem xét ở bệnh nhân HIV/AIDS hoặc các tình trạng suy giảm miễn dịch khác và có thể được chẩn đoán bằng PCR.

MRI

MRI có tiêm thuốc đối quang từ rất nhậy đối với viêm não HSV giai đoạn sớm, có hình ảnh phù nề vùng trán mắt và vùng thái dương, những khu vực thường bị nhiễm HSV. MRI cho thấy hình ảnh mất myelin trong bệnh não chất trắng đa ổ tiến triển và có thể cho thấy các bất thường khu vực hạch nền và đồi thị trong viêm não do vi rút West Nile và viêm não ngựa miền đông. MRI cũng có thể loại trừ các tổn thương có biểu hiện giống bệnh viêm não vi-rút (ví dụ, áp xe não, huyết khối xoang tĩnh mạch dọc).

CT ít nhạy hơn MRI đối với viêm não HSV nhưng có thể hữu ích vì phim này luôn sẵn có và có thể loại trừ các bệnh lý có thể gây nguy hiểm nhiều khi chọc dò thắt lưng (ví dụ: tổn thương gây choán chỗ, tràn dịch não, phù não).

Xét nghiệm dịch não tuỷ

Chọc dịch não tủy. Nếu có viêm não thì CSF sẽ đặc trưng bởi tăng tế bào lympho, glucose bình thường, protein tăng nhẹ và không có các mầm bệnh sau khi nhuộm Gram và nuôi cấy (tương tự như CSF trong viêm màng não vô khuẩn). Có thể tăng tế bào là đa nhân trong nhiễm trùng nặng. Các bất thường của CSF có thể không tiến triển đến 8-24 giờ sau khi xuất hiện triệu chứng Hoại tử xuất huyết có thể làm hồng cầu (RBC) xuất hiện trong dịch não tủy và tăng protein. Nồng độ glucose trong dịch não tủy có thể thấp khi nguyên nhân gây bệnh là vi rút varicella-zoster, quai bị hoặc vi rút gây vlêm màng não đám rối màng mạch tăng lympho.

Các mẫu dịch não tủy nên được gửi để xác định vi rút bằng PCR hoặc trong một số trường hợp, phát hiện kháng thể kháng vi rút trong dịch não tủy. Xét nghiệm PCR của dịch não tủy là xét nghiệm chẩn đoán được lựa chọn đối với HSV-1, HSV-2, vi rút varicella-zoster, cytomegalovirus, enterovirus và vi rút JC. PCR đối với HSV trong CSF đặc biệt nhạy và đặc hiệu. Tuy nhiên, kết quả không thể có nhanh chóng được và dù có những tiến bộ trong công nghệ, các kết quả âm tính giả và dương tính giả có thể vẫn xảy ra do nhiều điều kiện khác nhau; không phải tất cả đều là lỗi kỹ thuật (ví dụ, máu trong một CSF do chọc bị chạm ven nhẹ có thể ức chế bước khuếch đại của PCR). Kết quả âm tính giả có thể xảy ra sớm trong viêm não do HSV-1; nếu nghi ngờ kết quả âm tính giả dựa trên các dấu hiệu lâm sàng, xét nghiệm nên được lặp lại sau 48 đến 72 giờ. Một quy trình PCR đa kênh được phát triển gần đây, có thể phát hiện đồng thời nhiều loại vi rút và các tác nhân lây nhiễm khác, cung cấp thông tin chẩn đoán trong vòng vài giờ. Kết quả PCR đa kênh có thể cần được xác nhận bằng PCR thông thường.

Enteroviruses có thể phát triển trong môi trường nuôi cấy CSF nhưng hầu hết các virut khác không được. Vì lý do này, việc nuôi cấy vi rút trong dịch não tủy đã được thay thế bằng PCR và hiếm khi được sử dụng trong chẩn đoán.

Các bảng chuẩn độ IgM của CSF thường hữu ích để chẩn đoán nhiễm trùng cấp tính, đặc biệt là bệnh viêm não West Nile. Đối với loại bệnh này, các xét nghiệm này đáng tin cậy hơn so với PCR. Hiệu giá IgG và IgM trong dịch não tủy có thể nhạy hơn PCR đối với bệnh viêm não do nhiễm vi rút varicella-zoster tái hoạt động. Các xét nghiệm huyết thanh học giai đoạn cấp tính và giai đoạn hồi phục của CSF và máu phải được thực hiện cách nhau vài tuần; Các xét nghiệm này có thể phát hiện sự gia tăng của các nồng độ kháng thể virus đối với một số bệnh nhiễm virut nhất định.

Sinh thiết não

Sinh thiết não có thể được chỉ định cho những bệnh nhân

  • Đang xấu đi

  • Đáp ứng kém với điều trị bằng acyclovir hay thuốc chống vi khuẩn khác

  • Có thương tổn vẫn chưa chẩn đoán được

Tuy nhiên, sinh thiết não có độ chính xác thấp trừ khi đích sinh thiết là một bất thường nhìn thấy trên MRI hoặc CT.

Tiên lượng về viêm não

Quá trình hồi phục sau viêm não vi-rút có thể mất một thời gian rất dài. Tỷ lệ tử vong thay đổi theo nguyên nhân, nhưng mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh do cùng một loại virus cũng thay đỗi trong các năm khác nhau. Thiếu sót thần kinh thường gặp ở những bệnh nhân sống sót sau nhiễm trùng nặng.

Điều trị viêm não

  • Chăm sóc hỗ trợ

  • Acyclovir đối với HSV hoặc viêm não vi rút varicella-zoster

Liệu pháp hỗ trợ đối với bệnh viêm não bao gồm điều trị sốt, mất nước, rối loạn điện giải, và động kinh. Cần được duy trì tình trạng đẳng tích.

Bởi vì việc xác định kịp thời HSV hoặc virus varicella-zoster bằng PCR là khó khăn, không nên điều trị để chờ xác nhận. Cho đến khi loại trừ được viêm não do vi rút HSV và varicella-zoster, nên bắt đầu ngay acyclovir 10 mg/kg đường tĩnh mạch, 8 giờ một lần và liên tục trong 14 ngày hoặc cho đến khi loại trừ được nhiễm vi rút này. Acyclovir tương đối không độc hại nhưng có thể gây bất thường chức năng gan, ức chế tủy xương, và suy thận thoáng qua. Truyền acyclovir tĩnh mạch chậm trong vòng hơn 1 giờ với lượng nước phù hơp giúp ngăn ngừa độc tính trên thận. Nếu nghi ngờ cytomegalovirus (ví dụ, ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch), PCR thường được thực hiện trước khi bắt đầu điều trị. Viêm não do Cytomegalovirus có thể được điều trị bằng ganciclovir và/hoặc các thuốc kháng vi-rút khác.

Bởi vì rất khó loại trừ nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương (CNS) do vi khuẩn khi bệnh nhân biểu hiện bệnh nghiêm trọng, điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm cho đến khi nào viêm màng não do vi khuẩn được loại trừ.

Nếu các bác sĩ lâm sàng nghi ngờ rằng viêm não là do phản ứng miễn dịch (ví dụ, viêm não tủy lan tỏa cấp tính [viêm não tủy sau nhiễm trùng]), nên bắt đầu điều trị ngay lập tức; nó có thể bao gồm corticosteroid (prednisone hoặc methylprednisolone) và thay huyết tương hoặc globulin miễn dịch đường tĩnh mạch.

Những điểm chính

  • Virus gây ra dịch bệnh hoặc nhiễm trùng lẻ tẻ có thể xâm nhập và lây nhiễm vào nhu mô não (gây ra viêm não) và/hoặc gây ra sự thoái hoá viêm nhiễm sau nhiễm trùng (viêm não tủy não rải rác cấp tính).

  • Viêm não gây ra sốt, đau đầu, và tình trạng tinh thần thay đổi, thường kèm theo cơn co giật và dấu hiệu thần kinh khu trú.

  • Chụp MRI có tiêm thuốc cản quang và xét nghiệm CSF.

  • Cho đến khi loại trừ được viêm não virus HSV và vi rút varicella-zoster, phải điều trị ngay với acyclovir và liên tục trong 14 ngày hoặc cho đến khi loại trừ tình trạng nhiễm các loại vi rút.

  • Nếu viêm não do phản ứng miễn dịch, điều trị có thể bao gồm corticosteroid (prednisone hoặc methylprednisolone) và globulin miễn dịch trong huyết tương hoặc trao đổi chất hoặc globulin miễn dịch.